Thứ năm, 9/10/2014, 21h10

Phân tầng, xếp hạng cơ sở giáo dục ĐH: Không giống việc gắn huân chương

Trường ĐH Bách khoa TP.HCM là một trong những trường có chất lượng giáo dục tốt và được nhiều SV tín nhiệm trong khu vực phía Nam. Ảnh: X.H

Bộ GD-ĐT vừa đưa ra dự thảo nghị định quy định về phân tầng và xếp hạng các cơ sở giáo dục ĐH (CSGDĐH). Ngay lập tức, dự thảo nhận được nhiều ý kiến của các nhà quản lý GD, các chuyên gia GD.
Thực tế phân tầng, xếp loại các CSGDĐH trên thế giới đã làm từ lâu, Việt Nam giờ mới bắt đầu. Kinh nghiệm của thế giới đã có nhưng các tiêu chí của Việt Nam đưa ra không phải nhà làm GD nào cũng đồng ý. Giáo dục TP.HCM đã có cuộc trao đổi với GS.TSKH Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng khoa học, nguyên Phó giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội về vấn đề này. GS.TSKH Vũ Minh Giang cho biết: Khi bàn đến vấn đề phân tầng và xếp loại các CSGDĐH, có hai nội dung cần làm cho rõ, thứ nhất là những vấn đề có tính chất triết lý, thứ hai là kỹ thuật để thực hiện.
Về nội dung thứ nhất: Có một thời gian rất dài, GDĐH Việt Nam không để ý, hoặc do một triết lý GD nào đó hơi khác thế giới. Thế giới người ta coi đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội là công việc của GDĐH, GD chuyên nghiệp. Nói cách khác là đáp ứng nhu cầu của thị trường nhân lực. Cái đó không ai cãi, không ai bàn, không ai phản đối nhưng dường như không được vận dụng trong hệ thống các trường ĐH Việt Nam. Nó được thể hiện ở chỗ Việt Nam đào tạo ĐH như một cấp học, nội dung chương trình cũng đặt ra theo tôi là rất chủ quan của những người quản lý GD, của những CSGD. Có gì dạy nấy, thậm chí cũng học này, học kia nhưng không biết tại sao lại đưa cái đó vào. Vì vậy, chương trình đào tạo của Việt Nam là phổ thông cấp 4 hoặc 4 rưỡi. Nhưng điều nguy hại lại ở chỗ cách học đó, học sinh luôn luôn quá tải, học rất nhiều nhưng ra trường áp dụng lại không được bao nhiêu. Bởi vì, dạy ĐH là một quá trình tham gia sáng tạo tri thức mới, là quá trình rèn luyện khả năng làm việc độc lập, là khả năng thích ứng, chứ không phải là “bê” một mớ kiến thức đã có sẵn. Không bao giờ ở một trường ĐH lại có thể dạy được hết những điều đang diễn ra. Vì vậy, phải chú trọng dạy kỹ năng, phương pháp, cách tiếp cận, thậm chí là cả dạy làm người. Nhưng GDĐH Việt Nam không có thời gian để dạy sinh viên làm người. Chính vì một trong những nội dung của đổi mới căn bản toàn diện GD là phải chuyển ngay việc dạy coi trọng nội dung, nhồi kiến thức sang một nền GD chỉ trên một nền kiến thức cơ bản, tối thiểu, dạy học sinh về kỹ năng. 
Mặt thứ hai, vì GDĐH là đáp ứng nguồn nhân lực của xã hội nên tất yếu sẽ có các nhu cầu khác nhau về chất lượng, cấp độ. Ví dụ cũng cần kế toán trình độ ĐH, nhưng ở Tập đoàn Dầu khí Việt Nam phải khác với một doanh nghiệp do một gia đình thành lập. Thế thì làm sao đòi hỏi tất cả các trường ĐH phải chất lượng cao, đều phải đẳng cấp quốc tế. Các trường ĐH phải thích ứng với nhu cầu, đáp ứng các cấp bậc khác nhau của xã hội. Sự phân hóa, phân tầng của ĐH là một hiện tượng tự nhiên. Làm sao có thể đòi hỏi đồng nhất được. Đổi mới lần này, phải có cơ chế để tạo ra đáp ứng yêu cầu phân tầng hay thực tế là phải phân tầng GDĐH. Do đó Luật GDĐH đã đưa khái niệm này vào. Phân tầng là một thuộc tính của GDĐH. Cho nên chúng ta không thể đòi hỏi phân tầng là phải chất lượng, chất lượng. Đây là một câu nói khẩu hiệu, không đúng. Ở Mỹ cũng có những trường ĐH còn kém hơn ở Việt Nam bên cạnh có những trường thuộc tốp đầu. Như vậy, triết lý đó đã có ở Việt Nam và có cơ sở pháp lý. Nay đến vấn đề triển khai, tức là thể thức hóa lại là chuyện khác, phải rất thận trọng.
PV: Nhiều ý kiến cho rằng các con số mà Bộ GD-ĐT đưa ra còn mang tính cảm tính, ông nghĩ sao?

Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch (TP.HCM) dù được thành lập muộn nhưng nhờ chất lượng đào tạo tốt nên đã được sự tín nhiệm rộng rãi. Trong ảnh: SV ngành điều dưỡng của trường trong giờ học. Ảnh: A.Khôi
Tôi không nói các con số Bộ GD-ĐT đưa ra có thiên về số lượng hay không nhưng thế giới không ai làm thế. Tiêu chí mỗi năm phải đào tạo bao nhiêu tiến sĩ là vô lý. Có những năm có trường không có nghiên cứu sinh vào. Không có chuyện “sản xuất” đều đều tiến sĩ hàng năm được. Quy định con số đó là áp đặt. Phải có kế hoạch nào đó. Ví dụ như chúng ta đang cần nhân lực chất lượng cao thì thời gian bao lâu đạt được trên cơ sở năng lực của các trường. Còn đi vào chi ly mỗi năm các trường phải đào tạo bằng này tiến sĩ theo kiểu khoán là không tự nhiên.
Cũng có ý kiến cho rằng việc xếp hạng là động vào “nồi cơm” của các trường?
Xếp hạng và phân tầng là hai chuyện khác nhau. Xếp hạng là những cái người ta quan sát, đánh giá một cách khách quan theo các tiêu chí vẫn định mà thế giới vẫn làm. Nhưng cái này không liên quan đến Nhà nước. Nó giống như việc khám sức khỏe định kỳ. Xếp hạng này ảnh hưởng rất nhiều đến vị thế của trường ĐH đó trong mắt của người dân. Xếp hạng theo tôi đó không phải là công việc của Nhà nước. Nhà nước động vào xếp hạng rất nguy hiểm. Nó giống như việc gắn huân chương. Phải để cho một tổ chức tương đối độc lập làm. Tổ chức đó mà xếp hạng “bậy bạ” thì vài năm sau không ai tin nữa. Còn phân tầng là điều muốn thực hiện phần của Luật GDĐH. Nhưng theo tôi, có vẻ như chưa thấm lắm triết lý của phân tầng. Tôi nói lại, phân tầng ĐH là thuộc tính tự nhiên của các trường ĐH chứ không phải ai phân nó vào tầng nào. Cho nên nó ọp ẹp mà cho vào tầng cao thì người ta cho rằng “bế” lên tầng cao chứ chưa chắc phải đúng.
Còn đặt vấn đề đụng vào “nồi cơm”, tôi cho rằng cách đặt vấn đề đó không ổn. Vì cứ núp dưới danh nghĩa ù ù, mờ mờ để không công khai, để kiếm lợi, chất lượng kém đảm bảo điều kiện không đủ nhưng cứ thu tiền của nhân dân thì tôi phản đối. Nồi cơm ấy phải mở ra cho người ta xem là cơm gì. Còn cơm hẩm nhưng cứ nhử người ta vào ăn. Nồi thì đẹp nhưng mở ra lại cơm hẩm hay đậu, khoai là không được. Tôi ủng hộ phải làm sao công khai chất lượng của các trường để xã hội xem xét, để thế giới biết lại là cần. Nồi cơm mà hẩm thì đổ, đóng.
Theo ông, việc phân tầng, hoặc xếp hạng liệu có làm được trong giai đoạn hiện nay?
Bao giờ cũng làm được, không có gì khó. Theo tôi nên từ kiểm định. Trên cơ sở những chuẩn mực kiểm định mà thế giới quen làm. Có thể chúng ta chưa áp dụng được chuẩn mực của các nước phương Tây hay Mỹ thì có thể áp dụng tiêu chí của Hiệp hội Các nước Đông Nam Á (AUN).  Trên cơ sở đó các trường sẽ biết mình nằm trong thang bậc nào của xếp hạng. Tôi nghĩ nên làm sớm. Xếp hạng không phải là việc mà cơ quan Nhà nước đứng ra như việc xem xét huân chương mà là có đánh giá của các chuyên gia, của các tổ chức độc lập, không có liên quan gì đến việc đánh giá thấp bị trù, đánh giá cao được tiền. Việc đưa ra quy định phân tầng này, tầng kia, tôi sợ chưa đủ căn cứ.
Xin cảm ơn ông!
Nghiêm Huê (thực hiện)
“Tôi không bình luận, nhưng với tư cách chuyên gia, tôi chỉ yêu cầu phải xem xét thật kỹ trên cơ sở khoa học. Tại sao là 6 loại, 3 cấp, tại sao 10% cái này, 20% cái kia, hãy giải thích cho xã hội. Theo tôi, phân tầng không phải là cái áp đặt từ trên xuống, không phải là quy định của Nhà nước. Nếu Nhà nước quy định, người ra sẽ chạy theo lối xếp hàng để được “chui” vào tầng bao nhiêu, cái này hết sức nguy hiểm. Đừng đặt vấn đề bao nhiêu phần trăm. Vì theo tôi đấy là chủ quan”, GS.TSKH Vũ Minh Giang nói.