Hội nhậpGiáo dục khắp nơi

Định kiến ​​về nữ giới trong ngành khoa học máy tính

Tạp Chí Giáo Dục

Vi tư cách là các nhà nghiên cu chuyên v đng lc, bn sc và s phát trin nhn thc, chúng tôi nghĩ rng xã hi phn ln đã b qua mt đnh kiến ​​có hi. Đó là quan đim cho rng tr em gái không gii hơn hơn tr em trai trong các ngành khoa hc.


Ch khong 1/5 nhà khoa hc máy tính là ph nẢnh: Getty Images

Trong một nghiên cứu được thông qua của chúng tôi – được công bố vào tháng 11-2021 trên Proceedings of the National Academy of Sciences – chúng tôi nhận thấy rằng những định kiến ​​về mối quan tâm của trẻ em gái đối với khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học khá phổ biến trong giới trẻ ngày nay. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng những định kiến ​​này thực sự có ảnh hưởng đến mục tiêu về nghề nghiệp và cảm giác của các cô gái trong ngành khoa học máy tính (KHMT) và kỹ thuật.

Đnh kiến xã hi

Các lĩnh vực như toán học gần như có sự bình đẳng về giới tính – có nghĩa là, số lượng nam và nữ gần bằng nhau – và phụ nữ thực sự chiếm đa số trong các lĩnh vực như sinh học trong số các sinh viên tốt nghiệp đại học ở Mỹ.

Tuy nhiên, quốc gia này vẫn đang thất bại trong việc đa dạng hóa KHMT và kỹ thuật. Chỉ khoảng 1/5 bằng cấp về KHMT và kỹ thuật là dành cho phụ nữ.

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng định kiến ​​xã hội dành cho các lĩnh vực này với trẻ em trai và nam giới đóng vai trò như một rào cản khiến trẻ em gái và phụ nữ không được tiếp xúc với ngành KHMT. Đã có nhiều cuộc trò chuyện về tác hại của những định kiến ​​về tài năng thiên bẩm, trong đó khẳng định nam giới giỏi hơn nữ giới đối với ngành KHMT. Nhưng điều có thể còn gây bất lợi hơn cho động lực học tập của trẻ em gái là định kiến ​​cho rằng nam giới quan tâm các khối ngành này hơn nữ giới trong các hoạt động và nghề nghiệp về KHMT. Những định kiến ​​này có thể khiến các cô gái cảm thấy rằng họ không thuộc về những gì mình mơ ước.

Kim tra nhn thc ca tr em

Đối với nghiên cứu của chúng tôi, bước đầu tiên là đánh giá lại liệu trẻ em và thanh thiếu niên có tin những định kiến ​​xã hội này hay không. Chúng tôi đã khảo sát 2.277 thanh thiếu niên từ lớp 1-12 trong năm 2017 và 2019 về mức độ quan tâm của họ dành cho trẻ em gái và trẻ em trai đối với KHMT và kỹ thuật. Đa số thanh niên cho biết trẻ em trai có hứng thú với các lĩnh vực này hơn trẻ em gái. Hầu hết thanh niên – 63% – tin rằng trẻ em gái ít quan tâm hơn trẻ em trai trong ngành kỹ thuật. Chỉ 9% tin rằng trẻ em gái quan tâm đến ngành kỹ thuật hơn trẻ em trai. Những “khuôn mẫu về sở thích” này, đã được tán thành bởi những thanh niên đến từ nhiều quốc gia khác khác nhau, bao gồm cả thanh niên da đen, da trắng, châu Á và gốc Tây Ban Nha.

Điều này đã được tán thành bởi những đứa trẻ ngay từ khi 6 tuổi, ở lớp một. Những niềm tin về sở thích theo giới cũng phổ biến hơn những định kiến ​​về khả năng, rằng con trai tài năng hơn con gái trong các lĩnh vực này.

Chúng tôi cũng phát hiện ra rằng những định kiến ​​về sở thích này có liên quan đến kết quả xấu hơn đối với trẻ em gái nếu lựa chọn ngành KHMT. Một cô bé điển hình trong nghiên cứu của chúng tôi khi càng tin vào những định kiến ​​thiên vị con trai này thì cô ấy càng ít có động lực hơn trong ngành KHMT và kỹ thuật. Tuy nhiên đối với một cậu bé, khi càng tin vào những định kiến ​​này, cậu bé càng có động lực hơn.

nh hưng đến đng lc

Chúng tôi cũng đã thực hiện hai thí nghiệm trong phòng thí nghiệm bằng cách sử dụng thiết kế phân công ngẫu nhiên theo tiêu chuẩn vàng để xem liệu các khuôn mẫu về sở thích có ảnh hưởng đến động lực học tập của trẻ hay không. Chúng tôi nói với trẻ em về hai hoạt động mà chúng có thể thử. Sự khác biệt duy nhất giữa các hoạt động là một hoạt động được chọn ngẫu nhiên – có liên quan đến định kiến ​​rằng trẻ em gái ít quan tâm hơn trẻ em trai trong hoạt động đó.

Hoạt động khác không được liên kết với một khuôn mẫu như vậy. Nếu trẻ em thích hoạt động này hơn hoạt động khác, chúng ta có thể suy ra rằng khuôn mẫu đã gây ra sự khác biệt trong sở thích của chúng. Chúng tôi nhận thấy rằng định kiến ​​về sở thích thực sự có thể khiến các cô gái giảm động lực hoạt động trong ngành KHMT.

Chỉ 35% trẻ em gái chọn hoạt động theo khuôn mẫu hơn hoạt động không theo khuôn mẫu.

Xóa b đnh kiến

Tại sao khuôn mẫu về sở thích lại mạnh mẽ đến vậy? Định kiến ​​về sở thích có thể khiến con gái cho rằng: Nếu con trai thích những lĩnh vực này hơn con gái, thì con cũng sẽ không thích những lĩnh vực này. Cảm giác “thân thuộc” có ý nghĩa rất lớn đối với động lực, bao gồm cả những phụ nữ trẻ trong các lĩnh vực KHMT và kỹ thuật. Cảm giác “thân thuộc” của các cô gái càng thấp thì động lực của họ càng giảm.

Nhưng nếu những định kiến ​​đó là đúng thì sao? Trung bình, các bé gái ở Mỹ cho biết họ ít quan tâm hơn so với các bé trai về ngành KHMT và kỹ thuật.

Cho dù những định kiến ​​văn hóa này hiện tại có đúng hay không, chúng tôi tin rằng chúng có thể tạo ra một vòng luẩn quẩn. Các cô gái có thể bỏ lỡ cơ hội vì cho rằng họ không quan tâm hoặc không nên quan tâm đến một số lĩnh vực KHMT nhất định.

Nhưng tin tốt là sự thiếu “thân thuộc” mà nhiều cô gái cảm thấy trong một số lĩnh vực khoa học nhất định không phải là vĩnh viễn. Ngược lại, chúng tôi nghĩ rằng thực trạng có thể được thay đổi.

Có nhiều cách đơn giản để gửi cho trẻ em một thông điệp về những người thích làm KHMT và kỹ thuật. Cha mẹ có thể lựa chọn về việc mua đồ chơi gì cho con gái trong ngày sinh nhật hoặc ngày lễ, hoặc những trại hè nào mà chúng nên tham gia. Các cô gái có thể là ví dụ về những phụ nữ như Aicha Evans và Debbie Sterling – những người phụ nữ đang thay đổi thế giới thông qua công nghệ và tạo ra niềm vui cho bản thân khi làm việc đó.

Tất cả những gì chúng ta làm vẫn chưa đủ để các cô gái nhận ra rằng họ có thể lựa chọn làm KHMT và kỹ thuật. Để thay đổi hiện trạng này, chúng tôi nghĩ cần phải tuyên truyền rằng nữ giới cũng thực sự muốn lựa chọn ngành nghề này hơn cả nam giới.

Thy Phm
(Theo TheConversation)

Bình luận (0)