Để đạt được mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao thì nhiệm vụ cấp thiết có tính then chốt, nhất quán và lâu dài là phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập kinh tế sâu rộng trong tình hình mới.
Người lao động tích cực tham gia sản xuất
Kinh tế đang trên đà phục hồi
Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển ấn tượng với những kết quả nổi bật như quy mô kinh tế tăng gấp 12 lần, thu nhập bình quân đầu người tăng 8,3 lần, kim ngạch xuất – nhập khẩu tăng 29,5 lần, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 22 lần, tỷ lệ hộ nghèo cả nước từ 58% năm 1993 xuống chỉ còn 2,23% năm 2021 (tính theo chuẩn mới). Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu và còn thiếu ăn, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình với GDP bình quân đầu người đạt 2.779 USD vào năm 2020 và là một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới.
“Để đạt được những thành tựu trên, nhân tố then chốt là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội, nhất là về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”, ông Trần Tuấn Anh – Trưởng ban Kinh tế Trung ương – cho biết.
Bên cạnh những thành tựu nổi bật, ông Tuấn Anh cũng thừa nhận, năng lực tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế nước ta trước các cú sốc hoặc tác động bên ngoài còn yếu. Khả năng tự chủ của nền kinh tế chịu ảnh hưởng mạnh từ biến động hoạt động sản xuất khu vực đầu tư nước ngoài và một số thị trường lớn. Kinh nghiệm các nước cho thấy, Việt Nam không thể công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công nếu chỉ dựa vào FDI. Nền kinh tế Việt Nam cơ bản là một nền kinh tế thâm dụng vốn; gia công, lắp ráp là chủ yếu.
“Về tổng thể cho thấy, nền kinh tế Việt Nam hội nhập cao, có độ mở lớn nhưng lại tập trung vào một số ít thị trường và cơ cấu thiếu bền vững dẫn đến bị phụ thuộc. Chính những bất cập trên đã làm cho tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, biên độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần theo chu kỳ 10 năm”, ông Tuấn Anh nhận định.
Trong hai năm qua, nền kinh tế Việt Nam phải đối diện với hàng loạt khó khăn chưa có tiền lệ do đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, Việt Nam đã kiểm soát tốt được dịch bệnh, phục hồi nhanh kinh tế. Kinh tế quý I/2022 đã quay trở lại đà tăng trưởng cao, đạt trên 5%. Các lĩnh vực xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng đều tăng mạnh, niềm tin của nhà đầu tư tăng mạnh. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P đã nâng hạng tín nhiệm dài hạn của Việt Nam từ BB lên BB+, ghi nhận nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phục hồi vững chắc và dự báo tăng trưởng GDP năm 2022 của Việt Nam khoảng 6,9% với xu hướng dài hạn là 6,5% – 7% từ năm 2023.
Những kết quả về phát triển kinh tế xã hội rất đáng khích lệ trong những tháng đầu năm 2022 cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang dần trở lại quỹ đạo tăng trưởng nhanh như trước đây. Tuy nhiên, tác động của đại dịch vừa qua cùng với sự xuất hiện nhiều biến cố mới thuộc về bối cảnh quốc tế đã và đang đặt ra yêu cầu Việt Nam cần đẩy nhanh hơn, quyết liệt hơn, thực chất và hiệu quả hơn việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả.
Biến nguy thành cơ để vươn lên
Theo các chuyên gia, những năm gần đây thế giới có nhiều rủi ro, bất trắc, đang cấu trúc lại. Một thế giới đang chuyển mạnh sang thời đại công nghệ cao mang đến cho Việt Nam cơ hội lớn nhưng cũng đầy thách thức. Theo đó, 2 nhóm năng lực quan trọng nhất để vận dụng tất cả các điều kiện, ưu thế giúp Việt Nam vươn lên là năng lực thể chế và đổi mới sáng tạo.
PGS.TS Trần Đình Thiên – nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam – cho biết, hai năm qua kinh tế thế giới vô cùng khó khăn. Xung đột kinh tế xảy ra, công nghệ cao chi phối loài người, đứt chuỗi cung ứng do chiến dịch Zero Covid, xung đột chiến sự Nga – Ukraine đều tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải nhận diện tác động và thách thức. Tuy nhiên, nếu chúng ta thu hẹp được khó khăn thì đây là lời khẳng định tốt nhất về năng lực độc lập tự chủ của nền kinh tế Việt Nam.
Theo ông Thiên, trải qua hai năm khó khăn, thế giới rút ra nhiều bài học về rủi ro. Đó là bài học đòi hỏi cần sự liên kết toàn cầu để cùng tồn tại; bài học luật chơi không thể tự cô lập; bài học về lợi thế đi sau và bài học chuẩn bị năng lực đón đầu. Đối với Việt Nam, là nước đi sau, nhân lúc này cần chuyển đổi từ thời đại kinh tế vật thể tiến tới nền kinh tế số. Bởi nếu không tích cực làm kinh tế số và công nghệ cao thì khó vượt qua vì Việt Nam đang ở trình độ rất thấp. Việt Nam tuy không mạnh nhưng còn có cả một khát vọng, một tầm nhìn thể hiện năng lực chớp thời cơ vươn dậy. Nền kinh tế đang có đà, có thế và khát vọng giúp cho Việt Nam có cơ hội bứt phá. Cuộc khủng hoảng năng lượng lần này là cơ hội để Việt Nam ghi tên, tạo lập vị thế quan trọng trong sơ đồ năng lượng của thế giới, hoàn toàn có thể bứt phá bằng năng lượng tái tạo, chiến lược phát triển xanh…
“Việt Nam đã trải qua hai năm thử thách khẳng định tư thế độc lập sẵn sàng vươn lên thì đến bây giờ phải tận dụng vươn lên”, ông Thiên nói.
TS. Vũ Thành Tự Anh – Giám đốc Trường Chính sách công và Quản lý (ĐH Fulbright) cho rằng, Việt Nam đang đối diện các áp lực lớn là lạm phát, liên quan đến các vấn đề tài chính tiền tệ, đặc biệt liên quan đến nợ xấu. Đây là thách thức khi Việt Nam muốn duy trì một đà tăng trưởng kinh tế cao và mong muốn đạt được các mục tiêu 2025 đến 2030. Tuy nhiên, Việt Nam cũng có nhiều cơ hội liên quan đến chuyển đổi số, kinh tế số, xuất nhập khẩu, đặc biệt liên quan đến lương thực thực phẩm. Một cơ hội cực kỳ quan trọng đó là Việt Nam đang giữ được một trạng thái ổn định trong một thế giới biến động. Việt Nam có sự tự chủ, chủ động và khả năng chống chịu rủi ro tốt hơn rất nhiều so với trước. Nếu giữ được trạng thái mở cửa nhưng vẫn duy trì được sự ổn định thì cơ hội là rất lớn. Hơn nữa, trong quá trình tái cấu trúc lại nền kinh tế toàn cầu, tái cấu trúc lại chuỗi cung ứng khi giá nhiên liệu đang tăng, đồng thời rất nhiều nhà đầu tư muốn ra khỏi thị trường Trung Quốc nhưng vẫn phải ở gần đất nước này thì Việt Nam chính là cơ hội hấp thụ được các dòng vốn đầu tư chuyển hướng sang. Cơ hội này biến Việt Nam thành trung tâm sản xuất công nghiệp để xuất khẩu của vùng.
“Mọi nỗ lực của Chính phủ cần phải tập trung đến các kế hoạch đầu tư một cách chủ động, chuẩn bị mọi điều kiện nội lực thì chúng ta có thể tận dụng được tối đa các cơ hội”, ông Tự Anh nói.
Nguyễn Trinh
Bình luận (0)