Nhịp cầu sư phạmChuyện học đường

Sinh viên cần được trải nghiệm thực tế

Tạp Chí Giáo Dục

Chỉ khi nào hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) là động lực thực sự của sinh viên – theo đuổi vì đam mê chứ không để lấy điểm hay thành tích – thì việc nghiên cứu đó sẽ duy trì ngay cả lúc các em đã ra trường.

Theo Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ, sinh viên phải là lực lượng nghiên cứu chứ không phải tập sự nghiên cứu. Trong ảnh: Sinh viên một trường ĐH tìm hiểu thiết bị đào tạo mới

Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động NCKH như vậy khi đối thoại cùng sinh viên trong khuôn khổ Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội Sinh viên Việt Nam lần thứ X (nhiệm kỳ 2018-2023) mới đây.

Một trong 3 trụ cột quan trọng

Chia sẻ với sinh viên, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ khẳng định NCKH cùng với đào tạo nhân lực và chuyển giao trí thức là 3 trụ cột rất quan trọng của các cơ sở giáo dục ĐH. Theo đó, NCKH trong các trường luôn được đề cao, đây cũng là một trong những chỉ số quyết định thứ hạng trường ĐH và ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, đồng thời kết nối nhà trường với doanh nghiệp và cộng đồng.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết, theo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ĐH cũng như chủ trương trong các nghị quyết, trường ĐH được thành lập các doanh nghiệp. Đây là doanh nghiệp khoa học công nghệ, các starup, các vườn ươm; là nơi kết nối giữa sinh viên, giảng viên, những người có ý tưởng với doanh nghiệp để tạo ra các sản phẩm, chuyển từ ý tưởng thành sản phẩm, thậm chí đầu tư cho những nghiên cứu đỉnh cao. Như vậy có thể thấy động lực để các sinh viên nghiên cứu là có, vấn đề là tổ chức thực hiện như thế nào.

Trả lời câu hỏi có nên giao cho sinh viên làm chủ nhiệm đề tài NCKH không, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ khẳng định là nên, nhưng theo các cách khác nhau. Trong các đề tài nghiên cứu luôn có các cấu phần, sinh viên giỏi hoàn toàn có thể làm chủ những cấu phần đó. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng, không nhất thiết phải theo hướng giao sinh viên chủ nhiệm đề tài mà giao nhiệm vụ gắn với sản phẩm. Hoặc giao nhiệm vụ và sinh viên trong nhóm kết hợp với doanh nghiệp, dưới sự bảo trợ của giảng viên hay sự bảo trợ của tổ chức, doanh nghiệp để thực hiện. Sinh viên phải là lực lượng nghiên cứu chứ không phải tập sự nghiên cứu. “Tôi đánh giá cao nghiên cứu của sinh viên vì nhiều ý tưởng trở thành hiện thực, thậm chí là hàng hóa. Cần thành lập các nhóm nghiên cứu không chỉ kết nối trong trường ĐH mà với quốc tế để ra những sản phẩm, để bán được; từ đó có môi trường tốt để sinh viên theo đuổi, kết nối, tìm thấy sự sáng tạo bền vững và khởi nghiệp được”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Sinh viên phải được “nhúng” vào thực tế

Bên cạnh đó, các sinh viên cũng đề cập với Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ về thực tế một số đơn vị không muốn nhận sinh viên vào thực tập, kiến tập, tham quan trao đổi các dây chuyền công nghệ mới do các em hiện yếu kỹ năng thực hành. Về vấn đề này, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ thông tin, sinh viên yếu về thực hành, việc đào tạo chưa sát với sử dụng là thực tế phổ biến trong các trường ĐH của chúng ta hiện nay. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta chưa đạt được như mong muốn. Trên thực tế khâu dự báo thị trường của chúng ta còn yếu, bản thân các trường ĐH nói chung khi đào tạo cũng chưa thực sự quan tâm tới nhu cầu của thị trường, ít nhất là thị trường trong vòng 4-5 năm, mà chủ yếu đào tạo theo năng lực mình có. Ngay trong quá trình tuyển sinh cũng chủ yếu quảng bá về năng lực đào tạo mà thiếu hàm lượng thông tin dự báo thị trường. Có những ngành hiện tại có thể đang “hot” nhưng 4-5 năm sau không còn “hot” nữa và ngược lại, những ngành hiện tại tưởng chừng không được xã hội quan tâm thì sau một thời gian xã hội lại cần. Do vậy, việc dự đoán được nhu cầu dài hạn, từ đó đưa ra được yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và thiết kế được chương trình giảng dạy phù hợp là rất cần thiết.

Bộ trưởng cũng chỉ ra nhiều nguyên nhân dẫn tới việc sinh viên đi thực tập tại các doanh nghiệp gặp khó khăn. Thứ nhất là doanh nghiệp có quy trình làm việc, sinh viên thực tập khó được giao công việc trong các quy trình này. Thứ hai, chương trình sinh viên học so với thực tiễn còn khoảng cách, do vậy khi các em đến doanh nghiệp chưa thể thích ứng ngay công việc, thậm chí còn ngại ngần tự ti khi được giao việc. Thứ ba, chính bản thân một số sinh viên vẫn coi thời gian thực tập như một phần phải hoàn thành của quá trình học mà chưa coi đó là thời gian để được “nhúng” mình vào thực tế, điều đó làm cho doanh nghiệp không mặn mà trao truyền cho các em những kinh nghiệm thực tiễn.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết năm 2017, Bộ GD-ĐT đã thí điểm 2 mô hình đào tạo gắn nhà trường với doanh nghiệp ở lĩnh vực CNTT và du lịch. Theo đó, khoảng thời gian đào tạo ngoài nhà trường chiếm tới 30-50% số tín chỉ. Các trường ĐH liên kết với doanh nghiệp cùng đào tạo và đào tạo thông qua thực tiễn. Các tín chỉ được hình thành thông qua thực tiễn, sinh viên được “nhúng” mình vào hoạt động của doanh nghiệp ngay từ trên ghế nhà trường. Có như thế những sản phẩm sau khi ra trường mới đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp.

Bộ GD-ĐT đã yêu cầu các trường khi mở ngành phải chú trọng dự báo nhu cầu của thị trường. Ba yếu tố nhà trường – doanh nghiệp – người học phải kết nối với nhau trên nguyên tắc cân bằng. Cần nhìn nhận rõ, các trường ĐH phải có trách nhiệm trong thiết kế chương trình và có trách nhiệm với người học. Nếu không làm được điều đó, các trường cũng sẽ dần không có người học. Các trường ĐH còn phải thay đổi, giảng viên cũng phải thay đổi để bám sát với thực tiễn.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nói thêm, không phải cứ học ĐH là ra có thể làm được việc ngay, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới cũng vậy, trường ĐH chỉ cung cấp những kiến thức căn bản, còn khi bước chân vào doanh nghiệp, mỗi nơi lại có nét văn hóa riêng, có công nghệ riêng, các em phải dành một thời gian để làm quen với môi trường mới.

Thục Trân

Bình luận (0)