Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Lý thú xu thế biến chuyển của từ tiếng Việt

Tạp Chí Giáo Dục

Nhân s kin Nht hoàng đăng quang va qua, nhiu ý kiến không đng tình vi các bài báo gi Nht hoàng là “hoàng đế”, và nêu thc mc: “Trong trưng hp c th ca nưc Nht, mt t lâu nay vn thưng đưc dùng đ gi nhà vua Nht là “Nht hoàng”. Tuy nhiên “Nht hoàng” có tương đương v nghĩa vi cm t “Hoàng đế ca nưc Nht” không? Nếu tương đương, vic gi nhà vua Nht hin nay là “hoàng đế” có gì sai không? Có ngưi cho rng cách gi “hoàng đế” là cách gi ông vua ca mt nưc đế quc trong quá kh ca Nht, và thc mc không biết phi hiu sao cho đúng?”.

Mt tiết hc môn văn ca hc sinh THCS (nh minh ha). Ảnh: Y.Hoa

Hoàng đế và vua

Theo từ điển tiếng Việt, các từ hoàng đế, quốc vương, vua là những từ đồng/gần nghĩa, đều nhằm chỉ “Người đứng đầu Nhà nước quân chủ, thường lên cầm quyền bằng con đường kế vị”. Phân biệt rạch ròi hơn, vua/quốc vương là “vua một nước”, còn hoàng đế là “vua của một nước lớn, thường được nhiều nước xung quanh thần phục”.

Thực ra, trong thực tế lịch sử, không nhất thiết vua một nước nhỏ là “vương” còn vua một nước lớn, nhiều chư hầu mới được quyền xưng “đế”, như trường hợp vua nước ta từng tự hào xưng đế trong bài thơ thần của Lý Thường Kiệt “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. “Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên phận định tại thiên thư…” (Bản dịch của Trần Trọng Kim: Sông núi nước Nam vua Nam ở, Rành rành định phận ở sách trời…) và các đời vua sau này hầu hết thụy hiệu đều lấy danh xưng hoàng đế, như các vua: Đinh Tiên Hoàng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, Lý Thái Tổ là Thần Vũ Hoàng đế, Trần Thánh Tông là Tuyên Hiếu Hoàng đế, Lê Thánh Tông là Thuần Hoàng đế, Quang Trung là Vũ Hoàng đế, Gia Long là Cao Hoàng đế…

Theo một thạc sĩ sử học: Nhật hoàng hay còn gọi Thiên Hoàng vốn tương đương nghĩa với cụm từ “hoàng đế của nước Nhật”. Tuy nhiên, hiện nay Nhật Bản là nước quân chủ lập hiến, Nhật hoàng không còn đầy đủ quyền hạn như trước (chỉ còn mang tính hình thức, nghi lễ; vua với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, là biểu tượng của dân tộc) nên sử dụng khái niệm “Hoàng đế của nước Nhật” không còn phù hợp nữa mà chỉ gọi Nhật hoàng với ý nghĩa tôn kính truyền thống.

Hin tưng chung hóa tên riêng

Về từ “hoàng đế”, nhiều giả thuyết nêu nguồn gốc của nó là một tên riêng. Có ý kiến cho rằng tương truyền Hoàng Đế là tên hiệu của vị vua thời tối cổ Trung Hoa, là người nghĩ ra cách dùng cây cỏ để chữa bệnh, được coi là thánh tổ của ngành đông y. Ý kiến khác lại cho rằng: danh xưng Hoàng Đế chỉ xuất hiện từ thời vua Tần Thủy Hoàng (259-210 trước Công nguyên), vì muốn có sự khác biệt so với các vị vua khác cùng thời (đều đã bị ông khuất phục/tiêu diệt) nên tự xưng mình là Tần Thủy Hoàng Đế (có nghĩa là vị hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Tần). Con ông sau này kế vị xưng là Tần Nhị Hoàng Đế. Và từ đó, từ Hoàng Đế (viết hoa) là tên hiệu của người đứng đầu cao nhất của xã hội phong kiến phương Đông, dần biến thành danh từ chung “hoàng đế” để chỉ vua nói chung, không còn phân biệt rạch ròi giữa hai khái niệm vua nước lớn (đế) với vua nước nhỏ (vương) nữa.

Hiện nay, theo kết quả quan sát, chúng tôi nhận thấy việc dùng từ hoàng đế hay quốc vương/vua để chỉ người đứng đầu của một nước theo chế độ quân chủ tùy theo tập quán sử dụng ngôn ngữ của từng cộng đồng và theo từng thời kỳ lịch sử, chứ không nhất thiết phân biệt vua nước lớn hay vua nước nhỏ; giống như hiện trạng sử dụng từ “nguyên” (vốn là, trước đây đã từng làm) hay “cựu” (cũ, trước kia từng giữ chức vụ) nhằm chỉ người từng đảm đương một chức vụ nào đó, nay không còn giữ chức vụ đó nữa, nhưng nước ta thì nhất nhất dùng tổ hợp từ nguyên thủ tướng, nguyên chủ tịch nước, trong lúc một số nước khác thì lại chỉ dùng tổ hợp cựu thủ tướng, cựu tổng thống. Nên dù cho cùng chức vụ với nhau, nhưng vẫn tồn tại hiện tượng sử dụng từ ngữ khác biệt theo thói quen đầy cảm tính.

Trường hợp tên riêng Hoàng Đế trở thành danh từ chung hoàng đế như trên thuộc hiện tượng chung hóa danh từ riêng khá quen thuộc trong từ vựng tiếng Việt. Một số trường hợp tương tự như các tên riêng Sở Khanh, Mạnh Thường Quân, Đạo Chích… Sở Khanh là một nhân vật trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Hoa) và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, là một nhân vật ăn chơi đàng điếm, chuyên lừa gạt kỹ nữ lầu xanh. Với ảnh hưởng to lớn của Truyện Kiều đối với văn hóa Việt Nam, từ “sở khanh” hiện được dùng trong tiếng Việt với nghĩa là một người đàn ông chuyên gạ gẫm, lừa tình phụ nữ.

Mạnh Thường Quân là Tể tướng nước Tề thời Chiến Quốc, là một người giàu có, lại có lòng nghĩa hiệp, thích chiêu hiền đãi sĩ, trong nhà lúc nào cũng tiếp đãi đến vài nghìn môn khách cả văn lẫn võ. Ngày nay, từ “mạnh thường quân” được sử dụng nhằm chỉ những người từ thiện, hảo tâm.

Đạo Chích là nhân vật hư cấu ở đời Xuân Thu, xuất hiện trong nhiều kinh sách trước đời nhà Tần, khét tiếng trộm cướp và hung tợn. Từ tích truyện này, trong tâm thức và tín ngưỡng dân gian, Đạo Chích chính là ông tổ của nghề trộm cướp, còn từ “đạo chích” dần hóa thành danh từ chung đi vào trong ngôn ngữ văn chương và đời sống với nghĩa chỉ phường trộm cắp.

Xu hưng ngưc li: riêng hóa danh t chung

Ngược lại với xu hướng chung hóa từ ngữ nêu trên là xu hướng riêng hóa từ ngữ trong từ vựng tiếng Việt, một số ví dụ rõ nét nhất là các từ Đảng, Bác… Danh từ chung “đảng” chỉ nhóm người kết với nhau để cùng thực hiện một mục đích chung, đã thêm nghĩa phái sinh chỉ Đảng Cộng sản Việt Nam (nói tắt), ví dụ: được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Danh từ chung “bác” với nghĩa anh của cha hoặc chị dâu của cha/ cô, cậu hoặc dì ở hàng anh hay chị của cha mẹ… đã chuyển nghĩa thành danh từ riêng “Bác” là từ nhân dân Việt Nam tỏ lòng kính yêu dùng để gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh, như: vào lăng viếng Bác.

Phong phú nghĩa t “triu đi”

Cạnh đó còn những ý kiến thắc mắc về từ ngữ “triều đại mới/ triều đại Lệnh Hòa” dùng để chỉ triều Tân Thiên Hoàng Naruhito ở Nhật Bản. Có người cho rằng “triều đại” chỉ được dùng khi có sự thay đổi dòng họ nắm giữ ngai vàng chứ không thể dùng khi một ông vua cùng thuộc dòng họ cũ kế vị.

Quả nhiên, nghĩa gốc của từ “triều đại” đúng như nhận xét trên. Tuy nhiên, qua quá trình sử dụng, nghĩa của từ triều đại đã mở rộng dần ra, không còn hạn hẹp trong khái niệm chỉ thời gian trị vì của một họ tộc, mà còn chỉ từng đời vua kế vị cùng trong dòng tộc. Từ điển tiếng Việt đã ghi nhận nét nghĩa phái sinh này và giải nghĩa từ triều đại là “Thời gian trị vì của một ông vua hay một dòng vua, ví dụ: Triều đại Quang Trung. Triều đại nhà Trần. Các triều đại phong kiến” [Hoàng Phê (1995), Từ điển tiếng Việt, tr.1000]

Tuy nhiên, nhằm tránh gây cảm giác lạ lẫm hay nhầm lẫn đối với bạn đọc, các tác giả có thể/nên sử dụng các từ đồng/gần nghĩa với từ triều đại như “vương triều” (triều vua), “hoàng triều” (triều đình của vua đang trị vì), “niên hiệu” (tên hiệu của vua đặt ra để tính năm trong thời gian mình trị vì) như một số tít bài gần đây: “Lệnh Hòa” là niên hiệu vương triều mới của Nhật Bản, Hoàng triều Lệnh Hòa, Nhật Bản công bố niên hiệu mới…

Đ Thành Dương
(Trưng D b ĐH Dân tc TW Nha Trang)

 

Bình luận (0)