Sự kiện giáo dụcVấn đề - Sự kiện

Khoảng 43% người cao tuổi đang làm việc để mưu sinh

Tạp Chí Giáo Dục

Ngày 27-8, ti Cn Thơ đã din ra Hi tho Đnh hưng chính sách chăm sóc xã hi đi vi ngưi cao tui (NCT) thích ng vi già hóa dân s. Hi tho do y ban V các vn đ xã hi ca Quc hi phi hp vi Qu Dân s Liên hip quc t chc.

Mt ngưi cao tui bán hàng rong đ mưu sinh. Ảnh: I.T

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, dân số VN đã bước vào thời kỳ già hóa. Cả nước có khoảng 11.313.200 NCT (chiếm khoảng 11,95% dân số), trong đó khoảng 1.990.000 người từ 80 tuổi trở lên, có 5.734.900 NCT là nữ (chiếm gần 50,7%), 7.293.600 NCT sống ở khu vực nông thôn (chiếm 64,4%); tỷ lệ NCT thuộc hộ nghèo khoảng 25%…

Dự báo của Liên hiệp quốc, đến năm 2030 tỷ lệ dân số trên 65 tuổi của VN sẽ khoảng 12,9%, năm 2050 là 23%.

Cả nước hiện có 2.239.994 NCT được hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội; 1.617.367 NCT hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; 1,4 triệu NCT hưởng trợ cấp người có công; khoảng 10.000 NCT đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội; 10.362.769 NCT có thẻ bảo hiểm y tế (chiếm 91,6%/tổng số NCT).

Kết quả điều tra xã hội cho thấy, tỷ lệ NCT đang tham gia hệ thống hưu trí và trợ cấp xã hội còn thấp; mức kinh phí được hưởng chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng thu nhập của hộ gia đình; hệ thống nhà dưỡng lão tại VN chưa có nhiều. Tỷ lệ NCT sống với con cái giảm nhanh. Khoảng 43% NCT đang làm việc để mưu sinh, phần lớn trong đó là lao động phổ thông và sản xuất nông nghiệp với mức thu nhập thấp và bấp bênh. Hệ thống an sinh xã hội cho NCT hiện nay không có tính hỗ trợ đối với phần lớn NCT, đặc biệt là nhóm NCT dễ bị tổn thương…

Ông Đoàn Hữu Minh – Trưởng phòng Công tác xã hội, Bộ LĐ-TB&XH – cho rằng: “Dù VN có Luật NCT nhưng một số nơi cấp ủy, chính quyền địa phương chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm trong thực hiện chính sách, pháp luật đối với NCT. Hệ thống chính sách pháp luật còn nhiều nội dung chưa bắt kịp các yêu cầu của thực tế, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và sửa đổi. Đội ngũ cán bộ quản lý, cung cấp dịch vụ hỗ trợ NCT còn thiếu và yếu về năng lực nên chất lượng cung cấp dịch vụ chưa cao”.

Tại hội thảo, nhiều ý kiến cho rằng, Nhà nước cần thúc đẩy và đa dạng hóa các mô hình chăm sóc NCT dựa vào cộng đồng; có chính sách hỗ trợ cho những người chăm sóc NCT neo đơn, không nơi nương tựa, không còn khả năng tự chăm sóc tại cộng đồng. Nâng cao mức trợ cấp xã hội đối với NCT có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và hạ thấp độ tuổi NCT được hưởng trợ cấp xã hội (hiện nay là từ 80 tuổi trở lên) – trước mắt có thể hạ xuống 75 tuổi đối với NCT ở khu vực khó khăn, lâu dài chuyển sang chính sách trợ cấp xã hội phổ cập cho tất cả NCT ở độ tuổi 75 nếu thu nhập của họ không bảo đảm mức sống tối thiểu hay nhu cầu tiêu dùng thiết yếu. Khuyến khích khu vực ngoài công lập cung cấp dịch vụ chăm sóc NCT tại cộng đồng, có chính sách ưu đãi cũng như tạo môi trường bình đẳng cho khu vực này hoạt động trên cơ sở tính đúng, tính đủ chi phí dịch vụ theo giá cả thị trường. Nhà nước sẽ chi trả phí dịch vụ cho NCT có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn thuộc diện Nhà nước trợ giúp; các đối tượng là NCT khác có thể tự trả chi phí dịch vụ nếu họ có nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc tại cộng đồng. Phát triển dịch vụ chăm sóc NCT là bệnh nhân tại các bệnh viện; Kết hợp dịch vụ chăm sóc nuôi dưỡng với các dịch vụ phục hồi chức năng, giúp NCT nâng cao khả năng phục hồi sức khỏe thể chất và tinh thần…

Đan Phưng

 

Bình luận (0)