Tại Cần Thơ vừa diễn ra Hội thảo quốc tế “Giải pháp quản lý rủi ro thiên tai cho vùng đất thấp”. Hội thảo do Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai tổ chức…

Nông dân ĐBSCL dặm lúa vụ Thu – Đông. Ảnh: I.T
Do đặc điểm địa hình thấp trũng, phân bố dân cư rải rác, điều kiện canh tác còn thô sơ, nhỏ lẻ, hàng năm chịu ảnh hưởng của lũ từ thượng nguồn, mặn và triều cường từ phía biển khiến ĐBSCL trở thành một trong 5 châu thổ trên thế giới có nguy cơ tổn thương cao nhất trước bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH), nước biển dâng (NBD), và đang phải gánh chịu nhiều thiên tai do lũ và ngập lụt, hạn hán và thiếu nước ngọt, xâm nhập mặn. Tốc độ xói từ 5-30m/năm và đang trong xu hướng gia tăng. Tuy ít bão nhưng khi xảy ra bão thì vùng chịu ảnh hưởng rất nặng. Dưới tác động của BĐKH và NBD, thời gian tới, mặn sẽ đến sớm hơn và kéo dài hơn. Diện tích ngập tăng từ 1,9 triệu ha (năm 2009) lên 3,2 triệu ha. Độ sâu ngặp tăng thêm khoảng 0,7m. Các thị trấn, thị xã và TP của 13 tỉnh-thành ĐBSCL đều bị ngập. Tình hình mưa, lũ sẽ ngày càng phức tạp, cụ thể là lũ năm 2018 này gây thiệt hại 1.548,12 ha lúa, làm vỡ 3m đê bao Tam Nông – Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp; sạt lở bờ sông Hậu khu vực ấp Mỹ Khánh, xã Mỹ Hòa Hưng, TP.Long Xuyên, tỉnh An Giang với chiều dài 102m, sâu vào trong đất liền từ 20-25m, phải di dời khẩn cấp 11 hộ dân với 43 nhân khẩu.
Ông Trần Văn Thọ – Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, Bộ NN&PTNT – cho biết: “Hệ thống thủy điện tại các quốc gia ở thượng nguồn sông Mekong và tình trạng khai thác cát làm suy giảm nguồn phù sa bùn cát (suy giảm 95% giai đoạn 2040). Nhiều nghiên cứu cho thấy, tốc độ lún ở ĐBSCL từ 2-4cm/năm, chủ yếu ở các khu vực thấp ven biển, quá trình lún với tốc độ cao ngày càng nhanh. Khu vực bán đảo Cà Mau có tốc độ lún cao nhất. Dự báo đến năm 2050, 60% bán đảo Cà Mau sẽ thấp hơn mực nước biển. Một trong những nguyên nhân gây sụt lún là khai thác nguồn nước ngầm quá mức”.
Từ thực tế này, để “giải cứu” ĐBSCL, nhiều ý kiến cho rằng, các tỉnh vùng lũ không tiếp tục phát triển diện tích lúa Thu – Đông để hạn chế khả năng cản trở lũ; đồng thời triển khai các dự án chuyển đổi sản xuất cho nông dân vùng lũ để đảm bảo sinh kế – Chuyển đổi từ trồng lúa sang các mô hình sản xuất sử dụng ít nước hơn như trồng hoa màu, ứng dụng các biện pháp tiên tiến tiết kiệm nước; đầu tư xây dựng các công trình chống ngập cho các TP, thị xã, thị trấn và các khu dân cư…
Tuy nhiên vấn đề nhiều đại biểu lo lắng đó là việc chuyển đổi sinh kế của người dân vùng lũ. Ông Nguyễn Trường Sơn – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Phòng chống thiên tai – lo lắng: “Chúng ta yêu cầu nông dân chuyển đổi sinh kế, không làm lúa vụ 3, nhưng thực tế không dễ dàng vì phải tìm được đầu ra cho sản phẩm họ mới đồng ý chuyển hơn 30.000 ha lúa Thu – Đông để sản xuất các loại nông sản khác. ĐBSCL ở cuối nguồn sông Mekong, chúng ta không thể kiểm soát và can thiệp vào hệ thống thủy điện của các quốc gia ở thượng nguồn. Thậm chí Trung Quốc đã nói, Việt Nam hãy xác định là trong tương lai sẽ không có phù sa chảy về ĐBSCL. Do vậy chúng ta phải chuẩn bị kịch bản đối phó tình trạng này…”.
Chia sẻ khó khăn này, ông Laurent Umans – Thư ký thứ nhất về Quản lý nước và BĐKH (Hà Lan) – cho biết: “ĐBSCL tuy bị nguy cơ sụt lún nặng nhưng không khó khăn bằng Hà Lan vì 1/3 đất nước chúng tôi nằm dưới mực nước biển. Từ năm 1953 đến nay, Hà Lan không còn bị lũ lụt, xói lở đất, vì chúng tôi đã xây hệ thống đê, cống để giữ và thoát nước, dành không gian cho các dòng sông, chuyển đổi cơ cấu sản xuất khoa học, hợp lý. Cả xã hội đều vào cuộc để chống lũ lụt – Viện Nghiên cứu đưa ra giải pháp, chính quyền lập ngân sách, người dân thực hiện. Theo tôi, Chính phủ Việt Nam phải cố gắng xây dựng những chuỗi giá trị tốt hơn cho hàng nông sản thì người nông dân sẽ không làm lúa vụ 3. Để đối phó với các đập thủy điện trên thượng nguồn sông Mekong, phải lựa chọn các giống, cây, con phù hợp từng điều kiện nguồn nước (ngọt, mặn, lợ) và thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp”…
Đan Đan

Bình luận (0)