|
Một tiết học môn ngữ văn ở bậc THCS. Ảnh: Anh Khôi
|
Thời lượng học ngữ văn trong chương trình phổ thông hiện không ít nhưng học sinh (HS) vẫn mắc lỗi ngữ pháp, viết sai chính tả diễn đạt yếu. Và HS cũng rất miễn cưỡng học những tác phẩm trong chương trình. Thực tế đáng buồn này được chỉ ra tại hội thảo “Dạy học ngữ văn trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông” do Trường ĐH Sư phạm TP.HCM tổ chức ngày 25-4.
Ngay cả sinh viên sư phạm Khoa Ngữ văn cũng không được đánh giá cao về năng lực tiếng Việt, mặc dù đây chính là lực lượng sẽ giúp thanh thiếu niên Việt Nam trong tương lai biết yêu và sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ.
Miễn cưỡng học cho… xong
PGS.TS Nguyễn Kim Hồng (Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TP.HCM) cho biết, để cải thiện chất lượng đào tạo sinh viên ngành ngữ văn, trường dự kiến ngay khi được tự chủ tuyển sinh sẽ chú trọng điểm số môn thi liên quan trực tiếp đến chuyên ngành đào tạo chứ không chỉ căn cứ vào tổng điểm các môn. Tuy nhiên, cũng theo TS. Nguyễn Kim Hồng, việc này mới chỉ giải quyết được phần ngọn vấn đề, phần gốc vẫn phụ thuộc khâu dạy tiếng Việt ở bậc phổ thông.
Trong khi đó, Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học (Bộ GD-ĐT) Đỗ Ngọc Thống đã chỉ ra rằng chương trình phổ thông truyền thống bấy lâu nay chạy theo số lượng tác giả, tác phẩm, các đơn vị ngôn ngữ tiếng Việt, các kiểu văn bản cần tạo lập cho thật đầy đủ. Theo cách ấy, dù có cố gắng bao nhiêu cũng vẫn không đủ. Chương trình phổ thông hiện hành cũng được thiết kế cắt khúc theo ba cấp với nhiều nội dung dạy học chồng chéo, “giẫm đạp” lên nhau; vừa thừa vừa thiếu; hệ thống thuật ngữ khái niệm giữa các cấp, lớp không thống nhất.
Nhìn tổng thể, chương trình hạn chế ở việc thiết kế theo kiểu cắt khúc, không xây dựng chương trình tổng thể ngay từ đầu lẫn xuyên suốt các cấp, lớp… nên gây rối, thiếu tính khoa học và sư phạm.
Ở cách dạy văn, TS. Dương Thị Hồng Hiếu (Trường ĐH Sư phạm TP.HCM) nêu thực trạng, giáo viên (GV) và HS chưa được tạo điều kiện để lựa chọn các văn bản cho việc học. Bản thân GV có khi phải dạy những văn bản mà họ không thích, thậm chí… không hiểu. Còn HS thì thường phải học những tác phẩm mà các em cho rằng chẳng có ý nghĩa gì với cuộc sống của mình, chỉ cố để thi cho qua. Các đối thoại giữa GV với HS và giữa các HS với nhau trong lớp chỉ mang tính hình thức nhằm để các em phát triển các ý mà GV muốn. Ngoài ra, cách kiểm tra đánh giá chưa chú ý đến đánh giá quá trình; nội dung kiểm tra chủ yếu liên quan đến các kiến thức đã học chứ không chú ý đến kỹ năng, năng lực HS.
Chương trình mới sẽ “mở” hơn
Nên có nhiều bộ sách giáo khoa hoặc một bộ gồm những văn bản bắt buộc, phần còn lại để GV và HS tự chọn. Đồng thời chương trình học phải có độ mở nhất định, lấy kỹ năng thay vì nội dung kiến thức làm chính. Hai giải pháp này được TS. Dương Thị Hồng Hiếu đề cập nhằm đưa văn học đến gần với người dạy lẫn người học.
Ông Đỗ Ngọc Thống cũng nhận định, chương trình ngữ văn mới hướng tới cách tiếp cận theo năng lực. Vì vậy, chương trình sẽ không chạy theo số lượng mà chỉ chọn những kiến thức tiêu biểu, cần thiết giúp hình thành và phát triển năng lực chung cũng như một số năng lực chuyên biệt như giao tiếp, cảm thụ cái đẹp… ở HS. Bên cạnh đó, chương trình mới cũng sẽ theo hướng mở. Trước hết trong cách sử dụng, không bắt buộc HS và GV phải theo tuyệt đối, có thể dùng nhiều bộ sách, nguồn tư liệu khác nhau cho cùng một vấn đề…
Không dừng ở việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa ngữ văn, PGS.TS Bùi Mạnh Nhị (Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ GD-ĐT) còn nhấn mạnh đến việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV. Bởi theo ông, dù chương trình và sách giáo khoa có hay đến đâu mà người thầy dở thì cũng khó đem lại hiệu quả đào tạo.
TS. Đặng Lưu (Trường ĐH Trà Vinh) cũng xem việc đào tạo sinh viên ngành sư phạm là mắt xích quan trọng trong đổi mới dạy học môn ngữ văn. Vì theo ông, sản phẩm được tạo ra từ những “máy cái” này không đạt chuẩn thì mọi ý tưởng mới mẻ, hay ho đến đâu cũng khó thành hiện thực. Chất lượng đào tạo ngành sư phạm ngữ văn đến nay được thừa nhận là còn thấp. Ngay cả sinh viên sư phạm Khoa Ngữ văn cũng không được đánh giá cao về năng lực tiếng Việt mặc dù đây chính là lực lượng sẽ giúp thanh thiếu niên Việt Nam trong tương lai biết yêu và sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ.
Bỏ qua các vấn đề về chất lượng đầu vào, bối cảnh xã hội… TS. Đặng Lưu đề cập đến những bất ổn trong chương trình và cách đào tạo. Điển hình, ở việc thiếu giáo trình phương pháp, trong khi sách giáo khoa ngữ văn đã được thay rồi mà sinh viên vẫn phải học giáo trình được biên soạn từ vài chục năm trước, tái bản nhiều lần và nội dung chẳng ăn nhập gì chương trình sách giáo khoa hiện hành. Đặc biệt, việc thực hành tay nghề của sinh viên sư phạm còn ít. Qua các giờ tập giảng ngữ văn của sinh viên cho thấy thế hệ mới vẫn… giẫm lại bước chân người đi trước với phương pháp truyền đạt cũ kỹ, thiếu sáng tạo; sợ dạy sai, dạy thiếu kiến thức mà không lo lạc hậu về cách thức…
Mê Tâm
|
10 năm, môn văn vẫn “thiếu chỗ đứng”
Riêng chương trình và sách giáo khoa THPT, PGS.TS Đoàn Thị Thu Vân (Trường ĐH Sư phạm TP.HCM) đánh giá, dù ra đời cách đây 10 năm, đã có những thay đổi, chỉnh sửa theo hướng đúng đắn và hợp lý, tuy nhiên khi vận dụng vào biên soạn chương trình môn ngữ văn lại gặp lúng túng. Chẳng hạn, rất bất hợp lý khi học kỳ 1 của lớp 10, HS đã học bài thơ Cảnh mùa hè của Nguyễn Trãi nhưng đến học kỳ 2 mới được tìm hiểu kỹ về tác giả này thông qua bài văn học sử. PGS.TS Đoàn Thị Thu Vân đề cập thêm, việc cho HS hiểu biết thêm nhiều thể loại văn học là tốt nhưng lại khiến chương trình nặng, một số bài phải dạy lướt chứ không thể đi sâu. Thời lượng tiết học hạn chế nên khâu tổ chức cho HS thảo luận nhóm cũng bị “bỏ qua”; GV chỉ cố gắng giảng dạy để HS nắm và ghi chép được các nội dung cần thiết để làm bài thi.
“Từ lý thuyết đến thực tế có một khoảng cách như vậy nên những định hướng đúng đắn, tốt đẹp chỉ được thực hiện nửa vời. Đó là nguyên nhân sau 10 năm áp dụng chương trình và sách giáo khoa mới, lòng yêu thích và năng lực ngữ văn của HS vẫn chưa tiến triển đáng kể so với trước” – PGS.TS Đoàn Thị Thu Vân nói.
|


Bình luận (0)