Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Đánh giá năng lực học văn

Tạp Chí Giáo Dục

Giáo viên hướng dẫn học sinh trong tiết dạy ngữ văn. Ảnh: A.K
Theo PGS.TS Đỗ Ngọc Thống (Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học, Bộ GD-ĐT), để có cơ sở đổi mới kiểm tra đánh giá môn ngữ văn không thể không xác định một số nội dung quan trọng, đó là năng lực và năng lực ngữ văn.
Đánh giá năng lực chính là đánh giá khả năng thực hiện vận dụng thông qua làm, thông qua hành động để đo đếm và xác định chứ không chỉ dừng lại ở yêu cầu biết và hiểu trên bình diện lý thuyết. Tất nhiên việc vận dụng phải được phát huy từ kĩ năng và gắn với ý thức cùng thái độ chứ không phải dừng lại ở cách thực hiện máy móc và mù quáng. Cách tiếp cận tuy mới nhưng không phải xa lạ từ đâu tới mà nó vốn đã có trong chương trình cũ nhưng chưa được hiểu đúng như hiện nay. Cũng cần nói rõ hơn, nếu chỉ có kiến thức và kĩ năng – nhất là khi chúng tách rời nhau – thì chưa thể gọi là có năng lực thật sự.
Về năng lực ngữ văn, có nhiều cách hiểu được đưa ra nhưng cách hiểu chung nhất đó chính là trình độ vận dụng kiến thức, kĩ năng cơ bản về văn học và tiếng Việt để thực hành giao tiếp trong đời sống. Kĩ năng đó bao gồm hai bộ phận là năng lực tiếp nhận và năng lực tạo lập văn bản.
Trong khi đó, ThS. Phạm Thị Thu Hiền (Vụ Giáo dục trung học, Bộ GD-ĐT) cho rằng, năng lực tiếp nhận văn bản bao gồm kĩ năng nghe đọc, còn năng lực tạo lập văn bản gồm kĩ năng nói viết. Khái niệm văn bản ở đây bao gồm văn bản văn học và văn bản thông tin chứ không riêng gì văn bản văn học. Kiến thức tiếng Việt cùng với 4 kĩ năng cơ bản đó được kết hợp với khả năng ứng dụng vào các tình huống giao tiếp khác nhau sẽ làm nên năng lực giao tiếp của học sinh. Về tiếp nhận văn bản, đây là năng lực lĩnh hội các thông tin và từ nền móng đó để thấy được cái hay, cái đẹp của văn bản. Muốn thế không có con đường nào khác là phải biết cách tiếp nhận. Dựa vào các yếu tố từ ngữ, câu đoạn, hình ảnh… mới có được cách hiểu đúng và cảm thụ thấu đáo. Theo ThS. Phạm Thị Thu Hiền, chương trình sách giáo khoa và giáo viên thực tế chưa coi trọng kĩ năng nghe và nói nên người học chưa đáp ứng được hai yêu cầu này mặc dù được sử dụng rất nhiều. Bên cạnh đó, do áp lực thi cử quá lớn nên tình trạng giáo viên “đọc hộ, hiểu giùm và cảm thụ thay” cho học sinh đã diễn ra khá phổ biến. Trong các giờ học văn, các em chỉ biết khoanh tay ngồi lắng nghe và miệt mài ghi chép lại những bài giảng của thầy cô hơn là tự mình chủ động cảm thụ và khám phá văn bản. Mặt khác, trong chương trình văn bản thông tin vẫn chiếm tỉ lệ quá ít so với văn bản văn học. Ngoài ra hai hình thức kiểm tra miệng và kiểm tra viết vẫn chưa đánh giá được năng lực đọc hiểu của người học. Đó là những bất cập ai cũng dễ nhìn thấy.
Muốn có năng lực tạo lập văn bản thì người học phải biết cách tổ chức, xây dựng một văn bản hoàn chỉnh có ý nghĩa và đúng quy cách, tức là biết cách viết một loại văn bản nào đó. Ngoài việc phản hồi nhanh và chính xác các thông tin nghe được, người tạo lập văn bản nói phải có nội dung rõ ràng, ý tứ rành mạch và diễn đạt lưu loát. Từ nói đúng phấn đấu đến nói hay, từ nói hay rèn luyện đến nói hùng biện. Về mặt lý thuyết, học sinh THPT có đủ khả năng tạo lập được những văn bản theo các phương thức khác nhau. Tuy nhiên, do cách ra đề và đáp án “đóng” như hiện nay cùng với việc coi trọng kiến thức văn chương thái quá nên đề ra chưa tạo điều kiện cho các em phát biểu những suy nghĩ độc lập, sáng tạo. Ngoài ra, người học còn khó khăn và lúng túng trong cách vận dụng những kiến thức đã học vào việc giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
Theo nhiều chuyên gia giáo dục, đánh giá năng lực ngữ văn cần phải cụ thể hóa 4 kĩ năng đã nêu thành nhiều mức độ, cấp học khác nhau. Từ đó lựa chọn một phương pháp đánh giá phù hợp nhất. Các chuyên gia khuyến cáo rằng, đánh giá theo yêu cầu phát triển năng lực khác với đánh giá theo hướng cung cấp nội dung. Nội dung đánh giá không phải chỉ là những gì đã học mà là yêu cầu tổng hợp, liên hệ nhiều nội dung đã học; không chỉ ràng buộc giữa các phân môn trong môn học mà còn cả những hiểu biết tích hợp từ các môn học liên đới khác. Biên giới kiến thức không bó hẹp mà được mở rộng hơn. Giáo viên yêu cầu quyết liệt học sinh đi tìm các mối quan hệ giữa mọi kiến thức, kĩ năng của bài học với các hiện tượng, sự vật, sự việc con người. Ý kiến và cách giải quyết vấn đề của mỗi cá nhân người học luôn được coi trọng. Ngoài ra khuyến khích những suy nghĩ sáng tạo, mới mẻ, giàu ý nghĩa; đồng thời tôn trọng sự phản biện trái chiều và đặc biệt khuyến khích những lập luận giàu sức thuyết phục. Muốn thế đề thi và đáp án cần theo hướng “mở” với những mức độ và yêu cầu phù hợp. Tuy nhiên cũng xin mở ngoặc là tránh cực đoan theo kiểu “đóng” một cách máy móc dễ làm thui chột sự sáng tạo và “mở” một cách tùy tiện, phi thẩm mỹ, phản giáo dục. Có được sự hài hòa đó đòi hỏi rất nhiều ở bản lĩnh người ra đề thi và đáp án.
Nguyễn Hoàng Anh
Hai hình thức kiểm tra miệng và kiểm tra viết vẫn chưa đánh giá được năng lực đọc hiểu của người học. Đó là những bất cập ai cũng dễ nhìn thấy. 
 

Bình luận (0)