|
Trong phiên tòa phúc thẩm vụ kiện nhận cha cho con, Thuận đã không có mặt (ảnh chỉ mang tính minh họa). Ảnh: T.L |
Ông đến tòa với tâm thế mình sẽ thắng, vì chứng cứ đã sáng tỏ và… “rành rành” ra đó. Nhưng sự hụt hẫng, thất vọng và phẫn nộ dành cho người phụ nữ mà ông từng yêu thương, đến nay vẫn chưa dứt.
1. Phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ kiện nhận cha cho con diễn ra tại TAND TP.HCM ngày 14-2 chỉ có hai đương sự. Người thứ ba – đứa con – là căn nguyên dẫn đến buổi xét xử này đã không có mặt. Theo nội dung vụ án, ông L. (SN 1955) và bà H. (SN 1956), cùng trú tại quận Tân Bình, TP.HCM vốn là đồng nghiệp của nhau. Năm 1992, giữa họ phát sinh tình cảm và sau một thời gian tìm hiểu, cả hai quyết định dọn về chung sống cùng nhau. Năm 1994, bà H. sinh được người con trai, đặt tên Thuận. Do giữa bà và ông L. không có sự ràng buộc hôn nhân về mặt luật pháp nên Thuận được mang họ mẹ.
Từ ngày có con, cuộc sống của đôi “vợ chồng” này càng thêm hạnh phúc. Thế nhưng, khi Thuận được 10 tuổi thì cả hai thường xuyên cãi vã, đời sống có nhiều mâu thuẫn khi ông L. tỏ vẻ hoài nghi về mối quan hệ huyết thống giữa mình với con, thông qua nhiều tin đồn và “bài toán” so sánh quá khác biệt về nhân dạng. Vì thế, ông L. quyết định ra đi, thoát ly khỏi cuộc sống với mẹ con bà H. Cảm thấy chồng quá nhẫn tâm và bội bạc, đã đạp đổ tình yêu, hạnh phúc cũng như sự chung thủy của mình, người “vợ” ấy đề nghị “chồng” cùng con đến Bệnh viện Truyền máu Huyết học, tiến hành xét nghiệm ADN. Để rồi, kết quả giám định sau đó cho thấy: Giữa ông L. và Thuận không có mối quan hệ ruột thịt nào. Phẫn nộ bởi đứa con mình từng thương yêu, tin tưởng lại không mang huyết thống của mình, ông L. không thèm “đếm xỉa” gì nữa đến cuộc sống của họ. Riêng bản thân bà H., mặc dù chứng cứ đã có nhưng bà vẫn… mặc kệ, đồng thời bà gửi đơn đến TAND quận Tân Bình đề nghị “xác nhận cha cho con”, yêu cầu ông L. phải có trách nhiệm, nghĩa vụ của người cha là thanh toán tiền cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2 triệu đồng, từ lúc Thuận được sinh ra cho đến năm 18 tuổi.
2. Đến với phiên tòa sơ thẩm, ông L. đưa ra kết quả giám định ADN đã thực hiện và khẳng định đó là chứng cứ phủ nhận mối quan hệ giữa mình với con. Tuy nhiên, tòa đã bác bỏ bởi cho rằng việc giám định ADN nói trên chỉ là hình thức… cá nhân và thời gian thực hiện đã khá lâu so với thời điểm mở phiên tòa. Do đó, cấp sơ thẩm đề nghị phải tiến hành giám định lại, nhưng không được ông L. chấp thuận. Sự thiếu hợp tác của “chồng” cũng như nghi vấn về kết quả giám định ADN trước, bà H. gửi đơn đến bệnh viện để xin xác nhận quy trình giám định và nhận được trả lời như sau: Việc giám định ADN giữa Thuận và ông L. được thực hiện theo đúng quy trình, có sự theo dõi của bà H., bệnh viện cũng đã trả kết quả tại chỗ theo yêu cầu.
Do không “cưỡng chế” được ông L. tiến hành tái giám định, TAND quận Tân Bình đành quay trở lại với kết quả ban đầu, tuyên ông L. không phải là cha đẻ của Thuận, không phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con như bà H. yêu cầu. Phản đối với bản án tòa sơ thẩm đã tuyên, bà H. tiếp tục gửi đơn đến TAND TP.HCM, yêu cầu xử phúc thẩm.
3. Đến với phiên phúc thẩm, luật sư của bà H. cho rằng, ông L. chính là cha đẻ của Thuận. Sự thật này… không thể chối cãi bởi trước đây ông từng thừa nhận mối quan hệ, hành trình yêu đương, chung sống rồi có con giữa họ được nhiều người biết đến. Luật sư còn đưa ra chứng cứ là những bức ảnh ghi lại khoảnh khắc vợ chồng họ hạnh phúc, vui vẻ với con ở những tháng năm đầu. Thế nhưng, sau khi nghị án, HĐXX cho rằng luận cứ của luật sư không đủ thuyết phục. Mối quan hệ trong đời sống xã hội giữa họ không phải là căn cứ chứng tỏ quan hệ cha con mà đòi hỏi phải dựa trên các cơ sở khoa học – là kết quả giám định ADN. Tòa phúc thẩm sau đó đã tuyên bác đơn kháng cáo của bà H., đồng thời giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm. Do vậy, yêu cầu nhận cha cho con và đòi “chồng” phải thanh toán tiền cấp dưỡng nuôi con (chỉ còn chưa đầy nửa tháng nữa Thuận tròn 18 tuổi) của bà H. đã không được thực hiện.
Trước khi phiên tòa kết thúc, ông L. cho hay, nếu sự thật Thuận là con trai của ông, thì việc cấp dưỡng nuôi con dẫu không còn chung sống với nhau là điều tất yếu, ông sẽ thực hiện. Tuy nhiên, chứng cứ thể hiện “vợ” ông không chung thủy đã “rành rành” ra đó mà bà H. còn đi qua nhiều phiên tòa để kiện nhận cha cho con khiến ông cảm thấy rất buồn, bẽ bàng và phẫn nộ càng thêm… phẫn nộ.
Câu chuyện từ tòa án trên đây, đã cho thấy cuộc “hôn nhân” thiếu ràng buộc về tính pháp lý (không đăng ký kết hôn) và thiếu cả tính chung thủy (của người “vợ”) – bài học đắt giá mà cuối cùng người con lại là người nhận lấy hậu quả – tổn thương về mọi mặt.
Tuyết Dân


Bình luận (0)