Thời xưa vua chúa dùng vàng để an thần, ngày nay vàng là thành phần một số loại thuốc, chủ yếu chữa bệnh xương khớp.
Công dụng chữa bệnh của vàng
Ở phương Đông cũng như phương Tây, đặc biệt là Ấn Độ, Ai Cập, Trung Quốc, ngoài công dụng làm đồ trang sức và thay thế đồng tiền trong mua bán trao đổi hàng hóa, vàng còn được dùng để làm thuốc chữa bệnh.
Theo dược học cổ truyền phương Đông, vàng vị cay đắng, tính bình, có công dụng trấn tâm, an thần và giải độc. Qua thời gian, các nhà khoa học làm thí nghiệm với những kim loại khác nhau để xem phản ứng của chúng trên cơ thể người. Kết quả khẳng định vàng thực sự có tác động đến sức khỏe thể chất và tinh thần con người.
Theo Physical Gold, vàng là khoáng chất hoàn toàn tự nhiên không độc hại, không phản ứng với các loại thuốc khác và dễ dàng được dung nạp vào cơ thể. Khi đeo, tính chất dẫn điện, các mạch cộng hưởng khép kín của vàng làm phát sinh năng lượng, kích thích chức năng niệu – sinh dục cơ thể, thích hợp với những người ở trạng thái mệt mỏi, suy sụp.
Ngoài ra, vàng còn có tác dụng thư giãn, cải thiện lưu thông máu, từ đó điều chỉnh lưu lượng oxy đến mọi bộ phận của cơ thể, giúp phòng tránh bệnh tật.
Vàng có tính chất dẫn điện, phát sinh năng lượng, có tác dụng thư giãn, cải thiện lưu thông máu, phòng tránh bệnh tật khi đeo.
Từ nhiều thế kỷ trước, con người sử dụng vàng 24 karat (vàng nguyên chất), đặt vào vết thương nhiễm trùng hoặc vết đau. Tính bình, sự mềm dẻo của vàng giúp thư giãn tĩnh mạch và lưu thông mạch máu, từ đó chữa lành vết thương, kiểm soát nhiễm trùng.
Vua chúa Trung Hoa xưa kia thường uống vàng hòa tan trong nước (hoàng kim thủy) hoặc rượu (hoàng kim tửu) để mong trường sinh bất lão. Sách cổ Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân thời nhà Minh (Trung Quốc) viết: "Vàng làm trấn tĩnh thần kinh, chữa được bệnh kinh phong ở trẻ em".
Người Tây Tạng có đơn thuốc bổ rất quý trong đó có chứa vàng và một số dược thảo, dành cho khách đặc biệt.
Không những vậy, vàng được sử dụng để điều chỉnh cơ chế kiểm soát nhiệt độ cơ thể, bảo vệ con người khỏi các biến đổi nhiệt độ bên ngoài, tăng khả năng miễn dịch.
Các nhà nghiên cứu cho biết đeo vàng có thể cải thiện đáng kể các triệu chứng viêm khớp dạng thấp. Vàng thúc đẩy sự tái tạo các chất dẫn truyền thần kinh ở cả hai thùy não, tạo ra sự cân bằng chức năng não. Nó cũng có lợi cho các dây thần kinh với khả năng cải thiện luồng thông tin qua cơ thể, giảm căng thẳng, cảm giác tự ti, tức giận cũng như mang lại sự thoải mái. Bởi vậy, y học cũng sử dụng vàng để điều trị bệnh tâm thần.
Đến nay, nhiều hãng mỹ phẩm nổi tiếng thế giới đã sản xuất kem dưỡng da chứa vàng. Khi thoa lên da, nhờ những tác động xoa bóp và ma sát vật lý, chất vàng ở thể hạt mịn thấm sâu vào da, kích hoạt vào vùng da tổn thương, ngăn quá trình lão hóa của tế bào, giữ gìn làn da trẻ trung tươi mát.
Trong y học hiện đại, vàng có mặt trong thành phần trong một số thuốc như: Auranofin – dùng trong điều trị cơ bản bệnh viêm nhiều khớp dạng thấp ở người lớn, Aurothioglucose – tiêm bắp người thấp khớp, Aurotioprol – tiêm, điều trị vảy nến, thuốc Oligocure – chống suy nhược, bồi bổ thêm nguyên tố vi lượng.
Thống kê cũng cho thấy ngành nha khoa cũng dùng tới 3% lượng vàng tiêu thụ trên thế giới để bọc răng thẩm mỹ.
Ở một số dân tộc (Nhật, Trung Quốc, Pháp…), vàng được dùng làm thực phẩm. Người Nhật có thói quen rắc vàng nhỏ li ti vào thức ăn. Nhiều nhà hàng nổi tiếng sang trọng ở Pháp phục vụ bữa ăn đón giao thừa đặc biệt như trứng cá hồi có rắc bột vàng hoặc khoai tây rán phồng có điểm lá vàng ròng dát thật mỏng. Giá các món này không rẻ, khoảng 2.000 euro (trên 50 triệu đồng).
NT (theo khoahoc.tv)
Bình luận (0)