|
Đa số các trường, cơ sở DN đều đào tạo kỹ sư, công nhân kỹ thuật mà thiếu chú trọng đến đào tạo GVDN |
Sau 5 năm thực hiện Luật Dạy nghề (DN) trên toàn quốc, các tỉnh thành đã có bước đột phá trong khâu đào tạo nghề cho lao động, đặc biệt là lao động nông thôn nhằm thúc đẩy kinh tế, xã hội (KT-XH) phát triển bền vững. Tuy nhiên, qua thời gian đã bộc lộ việc thiếu trầm trọng nguồn lực giáo viên (GV) cơ hữu cũng như chất lượng GVDN không đáp ứng đủ điều kiện giảng dạy.
Trên thực tế, để đào tạo được một GV đạt chuẩn là cả quá trình “đãi cát tìm vàng”, đòi hỏi sự nỗ lực của cả hệ thống từ các ban ngành có thẩm quyền đến bản thân các trường, cơ sở đào tạo nghề…
Thiếu về số lượng
Tính đến năm 2011, toàn tỉnh Quảng Trị có 85 GVDN trong các cơ sở DN công lập, trong đó 2 trường trung cấp nghề (TCN) có 63 GV cơ hữu; 8 trung tâm DN có 22 GV. Ông Ngô Thanh Hùng, Phó giám đốc Sở LĐ-TB-XH Quảng Trị nhìn nhận: “Đội ngũ GVDN có tăng, chất lượng tuy đã có cải thiện nhưng chất lượng GV mới được tuyển dụng nên chưa đủ kinh nghiệm, kỹ năng dạy so với yêu cầu đặt ra. Riêng đối với các trung tâm DN tổng hợp các huyện, thị xã thiếu GV trầm trọng, thậm chí một số trung tâm đã đi vào hoạt động nhưng vẫn chưa có GV cơ hữu”.
Đơn cử như Trung tâm DN tổng hợp huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) được cấp phép thành lập năm 2005. Qua 7 năm phát triển, đến nay đơn vị vẫn chưa đủ điều kiện để đăng ký hoạt động DN. Nguyên nhân vì trung tâm chỉ có 3 cán bộ biên chế, trong đó cả 3 đều làm công tác quản lý, không có GV cơ hữu nên cơ sở không thể đào tạo học viên theo học nghề. Đó cũng là thực trạng chung của 8 trung tâm DN cấp huyện thị trong toàn tỉnh này. Theo thống kê, hiện 8 trung tâm DN cấp huyện chỉ có 14 GV cơ hữu. Tại Trường TCN Quảng Trị, nơi hiện đang đào tạo hàng ngàn học viên theo học các nghề từ sơ cấp trở lên, nhà trường cũng chỉ mới có 29 GV trên tổng số 36 cán bộ. Để đảm bảo cho việc đào tạo nghề, nhà trường buộc phải hợp đồng thêm 60 người.
Không riêng Quảng Trị, trong số 30 tham luận của các đại biểu đến từ các tỉnh thành, các trường ĐH, CĐ trên cả nước đều có chung tâm tư về việc thiếu trầm trọng nguồn lực GV cho công tác DN.
Yếu chất lượng
Theo đánh giá, kỹ năng giảng dạy của một bộ phận GV còn hạn chế, nhất là ở khối các trường DN địa phương, các trường mới thành lập, các trường ngoài công lập và khối các trung tâm DN. Số GV có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ và tin học còn ít, ảnh hưởng nhất định tới việc khai thác tài liệu nước ngoài phục vụ cho giảng dạy. Bên cạnh đó, việc giảng dạy theo chương trình tích hợp (lý thuyết và thực hành) còn ít, GV dạy được lý thuyết thì lại hạn chế về trình độ kỹ năng nghề khi dạy thực hành, GV giảng dạy được thực hành thì khả năng sư phạm về giảng dạy lý thuyết còn lúng túng…
Ông Ngô Thanh Hùng, Phó giám đốc Sở LĐ-TB-XH Quảng Trị cho biết, chất lượng giảng dạy của GV hợp đồng tại Trường TCN Quảng Trị có đến 50% không đủ chuẩn. Tuy vậy, nhà trường vẫn phải vừa sử dụng vừa làm công tác đào tạo, chuẩn hóa chất lượng đội ngũ GV để đáp ứng được yêu cầu dạy và học. Trong số 85 GVDN, thì khoảng 70% GV có trình độ TCN; số GV còn lại chỉ là nghệ nhân, công nhân kỹ thuật tay nghề cao.
Về vấn đề này, ông Cao Phi Hùng, Phó hiệu trưởng Trường CĐ Sư phạm kỹ thuật Vĩnh Long nhận xét, nhìn chung Luật DN hiện hành đã có những quy định về tiêu chuẩn, điều kiện của GVDN chủ yếu trên cơ sở Luật Giáo dục, chưa thể hiện tính đặc thù của hoạt động DN. Thực tế đối với những người có đủ tiêu chuẩn của GVDN, có đóng góp không nhỏ cho hoạt động DN, các cơ sở DN không thu hút được đội ngũ này vì chế độ đãi ngộ thấp. Hiện tại đội ngũ GVDN được đào tạo chính quy có tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số GV của các trường DN; tình trạng phổ biến này do đòi hỏi của sự phát triển các nghề lao động trong xã hội nhanh và các trường đào tạo GV chậm về phát triển ngành nghề đào tạo. Tuy nhiên, thực tế không ít trường đào tạo GVDN chưa chuyên tâm về đào tạo GV mà tham gia nhiều về đào tạo kỹ sư, cử nhân kỹ thuật.
Bà Nguyễn Thị Thanh Hưng, Giám đốc Sở LĐ-TB-XH TP.Đà Nẵng cho biết: Tính đến thời điểm hiện tại, thành phố có 1.748 GV, gần gấp đôi số GV so với năm 2007; trong đó số GV đạt trình độ trên ĐH chiếm 13,3%; trình độ ĐH và CĐ chiếm 55,7%; TC, thợ lành nghề và công nhân kỹ thuật bậc cao chiếm 31%. Mặc dù số GV có trình độ trên ĐH tăng nhanh trong 5 năm qua nhưng tỷ lệ thấp hơn so với năm 2007. Nguyên nhân do nhu cầu học nghề sơ cấp và DN thường xuyên tăng nhanh nên cơ cấu GVDN có trình độ sơ cấp nghề và thợ lành nghề cũng tăng theo tỷ lệ tương ứng.
Trong 5 năm qua, Sở LĐ-TB-XH TP.Đà Nẵng đã phối hợp với Tổng cục DN các trường ĐH, CĐ bồi dưỡng cho hơn 1.000 lượt GV và cán bộ quản lý DN trên địa bàn. Tuy nhiên ở một số ngành nghề, một số cơ sở đào tạo vẫn còn sử dụng GV chưa đảm bảo đủ chuẩn, trình độ chuyên môn và ngoại ngữ cũng như ứng dụng CNTT vào công tác DN chưa đáp ứng yêu cầu.
Giải pháp sống còn
Thiếu GVDN đang là thực trạng chung của các trường nghề, cơ sở đào tạo nghề trong cả nước. Nguyên nhân do chế độ đãi ngộ, mức lương quá thấp không thu hút được GV. Các cơ sở DN chưa thực hiện được việc DN gắn với cơ sở sản xuất kinh doanh; đầu ra quá ít, không có nguồn để tuyển. Trên thực tế, để đào tạo được một GV đạt chuẩn là cả một quá trình “đãi cát tìm vàng”. Theo Luật Giáo dục, GVDN chuẩn phải tốt nghiệp các trường sư phạm kỹ thuật, trường kỹ thuật, có chứng chỉ sư phạm nghề, trong khi thực tế nguồn sinh viên theo học tại các trường này hạn chế. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách cũng không đủ hấp dẫn để thu hút họ.
Ông Nguyễn Thế Mạnh, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật Nam Định nhấn mạnh: “Cần tăng cường bồi dưỡng kỹ năng thực hành trong cũng như ngoài nước cho đối tượng này. Cần có chính sách thu hút GVDN như ưu tiên người tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc ở các trường kỹ thuật; thể chế hóa mã ngạch GVDN cũng như có mức lương đủ hấp dẫn để thu hút GVDN. Bên cạnh đó cần có chính sách đủ mạnh, phù hợp đội ngũ GV, thu hút thế hệ trẻ tham gia học tập trở thành GV; đầu tư phát triển các trường đào tạo GV để đáp ứng yêu cầu cơ cấu ngành nghề…”.
Bài, ảnh: Phan Vĩnh Yên


Bình luận (0)