Sự kiện giáo dụcTin tức

“Sính ngoại”: Nhiều bệnh nhân tiền mất tật mang

Tạp Chí Giáo Dục

Vấn đề tồn tại hiện nay của y tế Việt Nam là dịch vụ còn kém

Mỗi năm cả nước có khoảng 40 ngàn bệnh nhân đi nước ngoài khám chữa bệnh (KCB), kéo theo đó là đất nước mất đi 2 tỷ USD. Phải chăng chất lượng KCB trong nước không đáp ứng được nhu cầu của người dân hay đơn giản vì họ “sính ngoại”?
Xung quanh vấn đề này, ngày 26-1, tại TP.HCM, Vụ Các vấn đề xã hội (Ban Tuyên giáo TW) và Báo Lao Động đã tổ chức hội thảo “Thành tựu y học Việt Nam thời kỳ đổi mới”.
Đừng để tiền mất tật mang
Hiện nay, trung bình mỗi ngày cả nước có trên 100 bệnh nhân khăn gói ra nước ngoài KCB chủ yếu là Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc… Giá cả dịch vụ KCB ở những nước này cao hơn rất nhiều so với ở Việt Nam.
“Bệnh nhân đi Singapore KCB răng hàm mặt thường cao gấp 30 lần so với điều trị tại Việt Nam”, TS.BS Hoàng Lương, Giám đốc Bệnh viện (BV) Tai Mũi Họng Sài Gòn, cho biết.
BS. Nguyễn Đình Phú, Phó giám đốc BV Nhân dân 115 (TP.HCM), cũng thừa nhận: “BV Nhân dân 115 có 19 dịch vụ, so sánh giá của những dịch vụ này với các BV ở Singapore thấy quá chênh lệch. Cùng một dịch vụ mổ ở BV Nhân dân 115 có giá 12 triệu đồng, ở Singapore là 560 triệu đồng; giá chụp động mạch vành ở BV Nhân dân 115 là 8,4 triệu đồng, ở Singapore là 56 triệu đồng…”. Trái ngược với giá dịch vụ “cắt cổ”, chất lượng KCB ở nước ngoài chưa chắc đã cao hơn Việt Nam. Không ít bệnh nhân đã phải “trả giá”.
BS. Lê Hành – Chủ tịch Hội Thẩm mỹ TP.HCM – kể lại: “Nhiều bệnh nhân ra nước ngoài thẩm mỹ nhưng không chú ý đến công tác chăm sóc hậu phẫu nên đã gây ra biến chứng. Lúc đó, họ không còn tiền nên ở lại Việt Nam điều trị. Chúng tôi phải lãnh hậu quả…”.
“Để người bệnh không ra nước ngoài KCB thì cần phải có sự đồng bộ giữa chuyên môn và dịch vụ y tế. Hiện nay, các BV công có đội ngũ bác sĩ giỏi, còn BV tư thì có dịch vụ tốt. Phải có cơ chế thông thoáng giữa BV công và BV tư. Như vậy không những không mất bác sĩ giỏi ở BV công sang BV tư làm mà còn giữ chân được bệnh nhân trong nước không ra nước ngoài KCB”, BS. Trương Quang Định – Phó giám đốc BV Nhi đồng 2 – cho biết.
GS.TS Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế, cũng cho biết: “Có nhiều bệnh nhân “sính ngoại”, mặc dù chỉ bị bệnh nhẹ cũng nhất quyết đi nước ngoài để điều trị. Một thai phụ bị nhau tiền đạo nhập viện BV Phụ sản TW. Những trường hợp như thế này, BV Phụ sản TW đã phẫu thuật thành công cả ngàn ca. Tuy nhiên, gia đình thai phụ lại chuyển bệnh nhân qua Singapore phẫu thuật. Kết quả sau phẫu thuật thai phụ bị dò niệu quản (do bác sĩ không có kinh nghiệm – PV). Thế là gia đình đưa bệnh nhân tới BV Phụ sản TW điều trị. Đây là một trong nhiều trường hợp vì “sính ngoại” nên tiền mất, tật mang”.
Về thực trạng bệnh nhân khăn gói ra nước ngoài KCB, PGS.TS Nguyễn Tấn Bỉnh – Giám đốc Sở Y tế TP.HCM – cho rằng: “Nhu cầu KCB ở nước ngoài của người bệnh là có thật. Bởi ở Việt Nam, với tình trạng quá tải như hiện nay, nhất là ở các BV chuyên khoa thì rủi ro là có. Rủi ro vì nhiễm trùng, do kháng thuốc. Vả lại, có những dịch vụ phải ra nước ngoài mới điều trị được. Tuy nhiên chỉ có khoảng 1% dịch vụ là BV Việt Nam không điều trị được”…
Bệnh nhân ngoại “mê” BV Việt Nam

Ngoài đội ngũ y bác sĩ giỏi, ngành y tế cần đầu tư dịch vụ chăm sóc bệnh nhân tốt hơn. Ảnh: T.La

TS. Trần Quý Tường – Phó cục trưởng Cục Quản lý khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) – cho biết: “Việt Nam hiện có 1.162 BV (cả công và tư) với 185.342 giường bệnh, tương ứng với 21,1 giường bệnh/vạn dân. Số giường bệnh của nước ta hiện khá thấp so với các nước đang phát triển – khoảng 34 giường bệnh/vạn dân. Nếu so với các nước phát triển, cụ thể như Nhật Bản – 140 giường bệnh/vạn dân thì quá thấp”. Tuy vậy, việc phát triển kỹ thuật cao trong lĩnh vực y tế ở nước ta không thua gì các nước trong khu vực. Thậm chí ở một số lĩnh vực còn ngang hàng với các nước phát triển trên thế giới. Chẳng hạn như kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) tại BV Từ Dũ, Phụ sản TW… phát triển nhất trong khu vực; kỹ thuật thông liên thất ở BV Nhi đồng 1 cũng đứng đầu khu vực – bình thường trẻ phải nặng từ 5kg trở lên mới phẫu thuật được nhưng BV Nhi đồng 1 đã phẫu thuật thành công cho trẻ chưa đầy 2kg; kỹ thuật nội soi ở BV Chợ Rẫy cũng rất phát triển, nhiều BV ở nước ngoài phải cử bác sĩ tới học hỏi; BV Mắt TP.HCM có những kỹ thuật mà chỉ các nước phát triển mới làm được…
Chính vì vậy mà khá nhiều bệnh nhân người nước ngoài, Việt kiều đã điều trị tại Việt Nam. “Nhiều bệnh nhân đã và đang điều trị ở nước ngoài (Thái Lan, Singapore, Trung Quốc, Mỹ, Nga, Pháp…) đã quay trở về điều trị tại Viện Huyết học – Truyền máu TW. Một số bệnh nhân người nước ngoài (Úc, Lào, Trung Quốc, Ba Lan…) đã điều trị bệnh tại viện. Thậm chí có nhiều bệnh nhân đã hoàn tất thủ tục đi điều trị ở nước ngoài, sau khi tới thăm viện đã quyết định điều trị trong nước”, GS.TS Nguyễn Anh Trí, Viện trưởng Viện Huyết học – Truyền máu TW, cho biết.
Cũng theo GS.TS Trí, hiện Viện Huyết học – Truyền máu TW đã áp dụng nhiều phương pháp điều trị hiện đại nhất của thế giới như ghép tế bào gốc đồng loại, diệt tủy tối thiểu bằng tế bào gốc lấy từ máu ngoại vi…
Trong khi đó, GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng – Chủ tịch Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP.HCM – cho biết Việt Nam là nơi thực hiện TTTON nhiều nhất khu vực Đông Nam Á với tỷ lệ thành công cao và thực hiện được hầu hết các kỹ thuật điều trị trên thế giới. Theo đó đã thu hút rất nhiều bệnh nhân nước ngoài, Việt kiều đến điều trị. “Mỗi năm, BV Từ Dũ, An Sinh, Vạn Hạnh TP.HCM thu hút 300 trường hợp người nước ngoài đến điều trị TTTON. Trong đó có một trường hợp đặc biệt là tiến sĩ C.H – chuyên gia nổi tiếng thế giới về TTTON. Con trai của ông hiện đã 4 tuổi. Việc ông đến Việt Nam để thực hiện TTTON là một bất ngờ trong giới chuyên môn trên thế giới”, GS.BS Phượng nhấn mạnh.
Từ thực tế trên, GS.TS Đào Văn Dũng – Vụ trưởng Vụ Các vấn đề xã hội (Ban Tuyên giáo TW) – cho rằng: “Các BV trong nước có thể đáp ứng tốt nhu cầu KCB của người bệnh mà không cần phải ra nước ngoài. Phải chăng bệnh nhân Việt Nam nên ưu tiên KCB tại Việt Nam”…
Bài, ảnh: Hòa Triều
Nói về những rủi ro cho bệnh nhân ra nước ngoài KCB, TS.BS Trần Hải Yến – Phó giám đốc BV Mắt TP.HCM – cho biết phí KCB cộng thêm các chi phí di chuyển và lưu trú cho bệnh nhân, thân nhân làm cho mỗi lần đi nước ngoài điều trị trở nên rất tốn kém. Bên cạnh đó, bệnh nhân còn gặp một số trở ngại. Chẳng hạn như khó khăn về giao tiếp do rào cản ngôn ngữ, đặc biệt là các thuật ngữ chuyên môn y khoa trong quá trình tư vấn. Hậu quả là người bệnh có nguy cơ quyết định điều trị khi chưa thông hiểu hoàn toàn về cơ chế, lợi ích, các tai biến trong và sau phẫu thuật. Sau khi điều trị hoặc phẫu thuật, việc tái khám phải bay qua nước ngoài, rất tốn kém. Nếu có những khiếu nại, không vừa lòng về kết quả điều trị, khả năng khiếu kiện thấp do chi phí luật sư cao, không hiểu pháp luật nước sở tại”.
 

Bình luận (0)