Theo Khoa Phục hồi chức năng Bệnh viện Nhi TW, từ 2000-2007 cho thấy số trẻ tự kỉ đến điều trị năm 2007 tăng 33 lần, tăng nhanh từ 122% đến 268% so với năm 2000. Nhiều phụ huynh sốc, lo cho tương lai khi biết khuyết tật của trẻ khá phức tạp.
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Việt Nam – bà Nguyễn Thị Nghĩa thừa nhận: Việt Nam thực sự quan tâm đến trẻ tự kỉ chỉ vài thập kỉ trở lại đây. Các dịch vụ chăm sóc cho đối tượng này chưa nhiều, hiệu quả chưa cao. Cha mẹ có con bị tự kỉ chưa được trang bị kiến thức tốt. Nhiều nơi có sự kì thị với trẻ tự kỉ.
Tăng chóng mặt
PGS.TS Nguyễn Thị Hoàng Yến, Phó viện trưởng Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, cho biết ở Việt Nam đến nay chưa có số liệu chính thức về tỷ lệ mắc hội chứng tự kỉ. Tuy nhiên, số liệu từ các bệnh viện, trung tâm chăm sóc trẻ chuyên biệt cho thấy trẻ bị tự kỉ đang tăng nhanh.
Nghiên cứu mẫu 254 cha mẹ của trẻ được chẩn đoán là rối loạn phát triển ở Hà Nội và TP.HCM của viện này cho thấy: 51,8% trẻ bị tự kỉ gia đình có kinh tế tốt, nhiều trong số đó làm kinh doanh, hành chính, văn phòng. 30% người cha, 24% người mẹ làm công tác chuyên môn như kĩ sư, bác sĩ, nhà nghiên cứu. Một kết quả nghiên cứu của ThS. Đào Thị Bích Thủy và ThS. Trần Thị Minh Thành, Trung tâm Đào tạo và phát triển giáo dục đặc biệt, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho thấy: Trong 200 cha mẹ tự kỉ được chọn một cách ngẫu nhiên thì 61% là phụ huynh của trẻ trai và 39% là phụ huynh của các em gái. Dù có học thức nhưng kết quả của Viện Khoa học giáo dục chỉ ra rằng cha mẹ ở khu vực Hà Nội, TP.HCM có hiểu biết về công tác chăm sóc trẻ tự kỉ chưa cao. 51,6% cha mẹ nói họ thực sự bị sốc khi nhận chẩn đoán tình trạng của con khá phức tạp, 73,2% lo lắng cho tương lai. “Nhiều phụ huynh vẫn mặc cảm khi biết con mắc tự kỉ nên có tâm lý hoang mang, lo sợ, suy sụp tinh thần. Một số kỳ vọng quá cao rằng con sẽ khỏi tự kỉ sau khi có tác động. Do vậy, sau một thời gian tác động, những cha mẹ có con bệnh tự kỉ không nhìn rõ sự tiến triển của con đã nản chí thậm chí thoái lui” – PGS.TS Lê Văn Tạc, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu giáo dục đặc biệt, Viện Khoa học giáo dục bổ sung.
Loay hoay tìm giải pháp
Theo PGS. Lê Văn Tạc, hiện Việt Nam chưa có đội ngũ giáo viên được đào tạo bài bản về giáo dục trẻ tự kỉ. Họ chỉ được tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng nhỏ lẻ theo các chuyên đề rời rạc và thường “không có đầu có đuôi”. Việc giáo dục hòa nhập cho trẻ ở trường đóng vai trò quan trọng nhưng do giáo viên phải phụ trách lớp có sĩ số từ 50-60 trẻ nên rất khó khăn khi tổ chức các hoạt động cho trẻ tự kỉ. Ở góc độ vĩ mô, theo PGS. Tạc Việt Nam cũng chưa có hệ thống quản lí các cơ sở giáo dục, can thiệp trẻ tự kỉ. Đặc biệt chưa có giám sát chuẩn chi cho các dịch vụ dẫn tới bức xúc đối với phụ huynh có con tự kỉ. Phó viện trưởng Hoàng Yến cho rằng khó khăn cần khắc phục ngay lúc này là hiện nay các hình thức và phương pháp, công cụ đánh giá phát triển cho trẻ tự kỉ ở Việt Nam còn thô sơ và không thống nhất giữa các địa phương và cơ sở thực hiện. Đồng thời với đó phải tăng cường công tác đào tạo nhân lực, phát triển đội ngũ chuyên môn cho việc phục vụ trẻ. Theo ThS. Đào Thị Bích Thủy và ThS. Trần Thị Minh Thành, trong khi thế giới chưa có thuốc chữa khỏi bệnh tự kỉ, việc cần làm là can thiệp sớm. Đây là sự khởi đầu quan trọng nhất cho quá trình can thiệp và có ảnh hưởng mang tính quyết định, lâu dài tới sự phát triển và tương lai của trẻ có rối loạn tự kỉ. TS. Connie Kasari đến từ Tổ chức Tự kỉ lên tiếng khẳng định: “Nhiều nghiên cứu cho thấy qua những khóa huấn luyện từ 20-30 buổi, mỗi buổi chỉ cần 20-30 phút bố mẹ hoàn toàn có khả năng can thiệp hiệu quả dù cho con tự kỉ”.
Nghiêm Huê

Bình luận (0)