Làm thế nào để giáo dục đại học (GDĐH) thực sự đạt được mục tiêu đề ra? Thời gian từ nay đến 2017 (thời điểm các trường ĐH, CĐ hoàn toàn tự chủ trong tuyển sinh) không còn nhiều, các trường sẽ phải làm gì. Giáo dục TP.HCM đã có cuộc trao đổi với ông Lê Hữu Lập, Phó giám đốc Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông về vấn đề này.
Ông Lập cho biết: GDĐH có liên quan đến giáo dục phổ thông. Nếu ở phổ thông hướng nghiệp tốt thì góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ĐH. Theo tôi, phổ cập chỉ nên dừng ở THCS và có điều chỉnh lại chương trình cho phù hợp. THPT sẽ đi vào hướng nghiệp để chuẩn bị cho đào tạo ĐH, CĐ sau này. Thi tốt nghiệp 4 môn trong đó có 2 môn bắt buộc và 2 môn tự chọn. Với hai môn tự chọn, đây sẽ nằm trong định hướng ngành nghề của các em ở ĐH.
Đối với GDĐH, theo tôi một là chương trình đào tạo ngoài kiến thức cơ bản, nền tảng cho một ngành nào đó, thì những chuyên ngành cần luôn cập nhật và đổi mới để phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội cũng như khoa học kỹ thuật. Trước đây các trường được tự điều chỉnh khoảng 30%, nhưng khung chương trình của bộ ban hành nhiều khi cũng đã lạc hậu. Bộ cũng không có điều kiện để điều chỉnh liên tục vì nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực. Vì vậy, đầu tiên phải tăng cường, tạo cơ chế chủ động cho các trường ví dụ như chương trình đào tạo các ngành kỹ thuật, kinh tế xã hội. Có như vậy, khi ra trường SV mới đáp ứng được yêu cầu. Thứ hai để thực hiện chương trình phải gắn với điều kiện CSVC, thí nghiệm, cơ sở thực hành. Hiện nay nhiều trường ĐH của Việt Nam, SV được thực hành, thực tập, thí nghiệm rất hạn chế vì số lượng SV đông, CSVC khó khăn. SV đa số chỉ được học lý thuyết. Thứ ba là đội ngũ giảng viên (GV). Các trường số lượng GV có thể đủ nhưng chất lượng thì chưa. Ở một trường ĐH, các thầy cô chỉ vùi đầu vào giảng dạy, lên lớp còn nghiên cứu khoa học hạn chế thì không ổn. Các bài báo khoa học đăng trên tạp chí quốc tế rất ít. Trong khi đó, với GV, ngoài giảng dạy phải cập nhật kiến thức và quan trọng nhất là nghiên cứu khoa học. Các nghiên cứu khoa học của GV nhiều khi còn xa vời.
PV: Phải chăng vấn đề này nằm ở nghịch lý GV dành nhiều thời gian giảng dạy, không có thời gian nghiên cứu khoa học, trong khi đó chỉ tiêu hàng năm các trường vẫn tăng lên?
Thực ra theo quy định, mỗi năm GV có 1.760 giờ làm việc. Trong đó, tùy theo mức độ GV chính, GV cao cấp có số giờ chuẩn giảng dạy là 280-300-360 giờ và có từ 500-600 giờ nghiên cứu khoa học. Số còn lại là sinh hoạt chuyên môn, chuẩn bị bài giảng và các hoạt động khác. Như thế số giờ nghiên cứu khoa học không phải là ít. Nhưng nghiên cứu cái gì và có kinh phí để nghiên cứu, để hỗ trợ không? Điều này phụ thuộc từng trường. Còn chỉ tiêu hàng năm căn cứ vào hai thông số: Đội ngũ GV quy đổi và CSVC để tuyển sinh hàng năm. Còn nhà trường không bắt GV vượt giờ, chỉ làm đủ giờ giảng dạy. Như vậy, bộ có quy định về thời gian để GV nghiên cứu khoa học rất rõ ràng. Nhưng nghiên cứu cái gì là câu chuyện khác. Trường phải tạo điều kiện để nghiên cứu, có chiến lược trang bị phòng lab cho giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ. Vì họ là những người đầu đàn để lôi kéo các GV vào nghiên cứu khoa học. Rồi mới tổ chức hội thảo thì mới ra được bài báo, mới đi quốc tế được. Một trường không có bài báo nào được công nhận thì không có giáo sư, không có phó giáo sư. Thực ra số lượng phó giáo sư, giáo sư hiếm là vì vậy, còn giờ giảng của các thầy là thừa. Vấn đề làm mới giáo viên, mới đội ngũ là khâu các trường phải quan tâm. Tiêu chuẩn đó thể hiện bằng các bài báo khoa học và các công trình được ứng dụng vào thực tế. Các thầy đâu chỉ có nhiệm vụ giảng dạy. Hiện các trường đang rất bí cái này. Nếu không làm được triệt để thì các thầy suốt ngày chỉ kiến thức cũ, SV cũng chỉ thế.
Theo ông, bài toán đổi mới có gắn với giao quyền tự chủ?
Hiện nay điều này chưa rõ ràng. Thực ra có ý kiến xóa bao cấp của trường công lập. Các nước họ làm thế nào, tại sao mình không theo họ?
3 năm nữa sẽ hết “3 chung”, ông nghĩ sao về vấn đề này?
Đây là việc làm cần thiết. Vì trong Luật Giáo dục ĐH đã quy định và thế giới người ta cũng làm thế. Thời gian vừa qua chúng ta đang trong thời kỳ “quá độ” nên dùng “3 chung” là hợp lý. Đến một lúc nào đó, “3 chung” sẽ hết nhiệm kỳ lịch sử. Nhưng vấn đề là làm sao để tự chủ. Hiện nay, chưa ai dám tự chủ, chưa ai muốn không thi “3 chung”? Bộ cũng có lý của mình để đảm bảo thi không tiêu cực, chọn được đúng người. Nhưng vấn đề bộ phải ép các trường hoặc các trường biết nhìn xa trông rộng. Theo tôi, nếu khôn ngoan thì năm 2014 các trường phải công bố năm 2017 tuyển sinh như thế nào. Còn tháng 4 mới công bố mà tháng 7 các em thi thì các em cũng bó tay. Có tuyển được thì chất lượng không ra gì. Do các em không có thời gian chuẩn bị. Phải chuẩn bị điều kiện để 2017 tuyển sinh riêng. Trường tôi cũng đang chuẩn bị và sẽ công bố luôn để các em vào lớp 10 năm 2014 có định hướng luôn. Nếu không công bố phương án tuyển sinh sớm thì các thầy cô giáo ở THPT cũng khó tư vấn hướng nghiệp cho học sinh của mình. Tôi vẫn giữ quan điểm điểm sàn. Giao tự chủ nhưng phải chuẩn bị nếu các trường không chuẩn bị thì cũng không tự chủ được. Hiện nay, các trường công lập không muốn bỏ “3 chung” vì làm đề rất nặng nề mà lại tốn kém. Nhưng thi “3 chung” có cái dở là không định hướng nghề nghiệp của các trường. Thi “3 chung” môn nào cũng biết nhưng lại chẳng biết gì. Ví dụ như CNTT, môn tin học rất quan trọng nhưng các em thi toán, lý, hóa, các em chả biết gì về tin học.
Vấn đề tuyển đủ chỉ tiêu đang là mối quan tâm của các trường ngoài công lập, ông nghĩ sao?
Chỉ tiêu là quan niệm sai lầm của một số trường. Vì đào tạo ra làm gì khi không có việc làm cho sinh viên. Vấn đề là cần học sinh dốt hay học sinh giỏi. Nên bộ đừng lo vấn đề tiêu cực.
Xin cảm ơn ông!
Nghiêm Huê

Bình luận (0)