Sự kiện giáo dụcTin tức

Thí điểm VNEN ở lớp 6: Vừa chạy vừa xếp hàng

Tạp Chí Giáo Dục

Giờ học theo chương trình VNEN của Trường Tiểu học Tân Thông (Củ Chi, TP.HCM). Ảnh: N.Trinh

Sau những thành công từ mô hình trường học mới (VNEN) ở cấp tiểu học, năm học 2014-2015, Bộ GD-ĐT chính thức triển khai thí điểm mô hình này đối với lớp 6 cấp THCS. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì các địa phương thí điểm đang gặp rất nhiều khó khăn.
Tựu trường mới tập huấn!
Theo kế hoạch, năm học này bộ sẽ thí điểm VNEN đối với lớp 6 tại 6 tỉnh: Hà Giang, Lào Cai, Hòa Bình, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Kon Tum và những tỉnh tham gia tự nguyện. Cũng trong kế hoạch năm học thì bộ quy định các sở GD-ĐT có thể cho học sinh (HS) các trường tựu trường từ ngày 1-8 đến 25-8. Thế nhưng mãi đến ngày 14-8 vừa qua, bộ mới tiến hành tập huấn cho các tỉnh tham gia thí điểm. Đến ngày 18-8 thì tập huấn xong. Chính vì vậy, một số giáo viên (GV) của Hà Giang đặt câu hỏi với Bộ GD-ĐT: GV chưa có gì (tài liệu dạy học, tài liệu hướng dẫn) thì dạy thế nào? Về vấn đề này, ông Vũ Đình Chuẩn, Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học, Bộ GD-ĐT cho biết, sau khi khóa tập huấn xong, ngày một ngày hai sẽ gửi tài liệu học đến các sở GD-ĐT tham gia thí điểm. Còn tài liệu hướng dẫn dạy học thì phải sau khi bộ tập hợp ý kiến của các thầy cô tham gia tập huấn hoàn thiện sẽ chuyển tới cho các trường. Nhiều GV cũng cho rằng bộ nên tập huấn sớm hơn để các trường có thời gian chuẩn bị. Bên cạnh đó, bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, GV Trường THCS Võ Thị Sáu (thành phố Hòa Bình) băn khoăn: Trong số các môn được tập huấn không có môn tiếng Anh, không biết môn học này sẽ triển khai dạy như thế nào? Điều này, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển cho biết riêng môn tiếng Anh sẽ triển khai theo chương trình đề án ngoại ngữ quốc gia.
Khó khăn đủ thứ
Ngoài những khó khăn khách quan được nêu ở trên, khi đi vào triển khai, các trường còn gặp rất nhiều khó khăn khách quan khác. Một GV ở Hòa Bình (xin được giấu tên) cho biết Hòa Bình năm nay thí điểm tại 3 trường THCS. Trong đó có 2 trường vùng sâu, vùng xa của thành phố Hòa Bình và một trường ở huyện Lương Sơn. Khó khăn nhất khi thực hiện mô hình VNEN với Hòa Bình đó là cơ sở vật chất. Hiện nay sĩ số lớp 6 của một trong 3 trường tham gia thí điểm đang là 36 HS nhưng phòng học rất nhỏ, chỉ kê 18 cái bàn học (mỗi bàn 2 HS) là GV không có chỗ để đi. Diện tích lớp học nhỏ như thế sẽ rất khó khăn cho GV chia nhóm trong lớp. Khó khăn thứ hai mà Hòa Bình đang gặp phải đó là trình độ GV. Không phải GV nào cũng có thể biết cách tổ chức lớp học, biết đặt ra các câu hỏi mở, biết nêu ra các vấn đề để HS thảo luận. Hòa Bình cũng đã triển khai ở bậc tiểu học nhưng cũng có tình trạng một số phụ huynh xin cho con ra khỏi lớp áp dụng mô hình VNEN. Một khó khăn nữa đối với GV đó là ngoài việc đảm nhiệm công việc của lớp học theo mô hình VNEN thì GV vẫn phải dạy cả các lớp đại trà. Chính vì vậy mà GV sẽ rất vất vả. Khó khăn khác cũng không kém phần quan trọng đối với các trường khi thực hiện thí điểm mô hình này đó là sự đồng thuận của phụ huynh HS. Có nhiều phụ huynh đã nhất quyết xin con em mình ra khỏi lớp VNEN. Đây cũng là thực tế mà các trường phải đối mặt trong thời gian tới.
Nhanh cũng phải từ từ
Bên cạnh những khó khăn, không thể phủ nhận mô hình VNEN có rất nhiều tiến bộ so với mô hình học truyền thống trước đây. Một GV đã ví von: “Với mô hình VNEN, GV đã cung cấp cho HS cái cần câu thay vì con cá như mô hình học truyền thống”. Vì rõ ràng GV không thể cho HS mọi loại cá tại mọi vùng miền khác nhau. Hơn nữa, các em HS có sở thích khác nhau. Do vậy, GV cho các em cần câu, hướng dẫn các em và các em câu được con cá theo nhu cầu của mình. Theo cô Hoàng Thị Thu Hà (chuyên viên môn ngữ văn, Sở GD-ĐT Hà Giang), đây là mô hình mới. Qua chương trình này, HS phải tự học, tự lực, tích cực phát huy khả năng của mình và năng lực hợp tác trong quá trình học trong lớp. Trong chương trình VNEN có nhiều ưu điểm so với chương trình truyền thống. Đó là sau khi học, các em hiểu được cấu trúc của một bài học, một bài ngữ văn theo 5 bước, giúp cho HS có được những tri thức qua đó có thể trải nghiệm, vận dụng kiến thức kỹ năng vào cuộc sống hàng ngày. Đây là một trong những yêu cầu mới. Thứ nữa là mô hình này tạo cho GV phát huy sự sáng tạo và phát huy được năng lực học tập của HS. Ông Lê Hoàng Việt (Phòng GD-ĐT thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai) cho biết, HS Lào Cai đã được làm quen với VNEN từ tiểu học. Lớp 5 cũng đã được tập huấn. Ở cấp THCS, tỉnh đã đưa một số hoạt động vào nhà trường như hoạt động nhóm, tính tự quản. Tuy nhiên, đề nghị: Với chương trình đại trà, mục tiêu của tiểu học và THCS vẫn còn những cái chưa liên thông. Cần có những liên thông để HS tiểu học lên THCS không bị bỡ ngỡ. Trước vấn đề này, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển cho rằng phải từ từ, bình tĩnh để triển khai cho chắc. Bộ đã cho phép sắp xếp trong cả một năm học. Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cũng khẳng định về mặt kiến thức, chắc chắn HS VNEN bằng HS đại trà và hơn HS đại trà các kỹ năng mềm. VNEN chấp nhận sự khác nhau của mỗi HS nhưng là để phát huy cao nhất khả năng của mỗi HS. Về mặt sĩ số cũng thế. Theo Thứ trưởng Hiển, các cụ vẫn nói “liệu cơm gắp mắm”, chúng ta phải khắc phục dần dần. Không phải vì thế mà không làm. Chính vì vậy, với mô hình trường học này, bộ khuyến khích hoặc chuyển hoàn toàn hoặc từng bậc, từng bậc.
Bài, ảnh: Nghiêm Huê

Bình luận (0)