|
Học theo mô hình VNEN, các em học sinh tại Trường Tiểu học Đakrông 2 phát huy sự chủ động, tính sáng tạo hơn
|
Đối với các vùng còn khó khăn, để học sinh (HS) vừa học thông thạo tiếng Kinh vừa tiếp cận một mô hình giáo dục mới quả là vấn đề nan giải. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi sự nỗ lực không mệt mỏi của những người làm công tác giáo dục…
“Trường học mới” (VNEN) là mô hình được đưa vào áp dụng thí điểm ở một số địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đến nay đã hơn 1 năm. Nhìn lại chặng đường đã qua với những thành quả đạt được bước đầu mới thấu hết sự nỗ lực không mỏi mệt của các giáo viên đứng lớp. Đặc biệt là ở các huyện miền núi – nơi có đến hơn 80% con em là đồng bào dân tộc thiểu số Vân Kiều, Pa Cô.
Nỗ lực không mệt mỏi
Đã nhiều năm đứng lớp ở Trường Tiểu học Đakrông 2 (huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị), nhưng mỗi khi nhận lớp mới vào đầu năm học là cô giáo Nguyễn Thị Hồng Lĩnh – chủ nhiệm lớp 3B – cảm thấy như một lần nữa đối diện với những khó khăn mới. Học sinh của cô phần lớn là con em đồng bào dân tộc Vân Kiều, Pa Cô – ngôn ngữ giao tiếp của các em chủ yếu vẫn là tiếng bản địa – nên để rèn cho các em hiểu tiếng Kinh, viết suôn sẻ một đoạn văn hay làm một bài toán… quả thật rất vất vả. “Mới đầu học theo mô hình này các em rất lạ lẫm. Cứ phân nhóm xong ngồi lại là bắt đầu trò chuyện và quậy phá. Cô giáo quản nhóm này thì nhóm kia bắt đầu xì xào. Để các em quen với mô hình mới, tôi phải nỗ lực rất nhiều như tiếp cận nắm bắt tâm tư tình cảm các em. Thậm chí mô hình mới không được đưa sách về nhà, tôi phải kiếm sách cũ, vở cũ cho các em mang về học thêm ở nhà”, cô Lĩnh cho biết.
Xác định việc nâng cao chất lượng dạy học theo mô hình VNEN ở bậc tiểu học là rất khó, vì vậy Ban giám hiệu nhà trường luôn chú trọng đến việc bố trí giáo viên đảm nhận lớp. Đó là những giáo viên giàu kinh nghiệm, tâm huyết với nghề, có sức khỏe và văn hóa sâu rộng để hiểu phong tục tập quán cũng như tâm tư tình cảm của đồng bào dân tộc thiểu số. Từ đó, giáo viên vừa dạy học trên lớp vừa liên hệ với phụ huynh giúp đỡ các em ôn tập ở nhà. Với sự tận tâm của giáo viên, chất lượng học sinh theo mô hình mới có nhiều thay đổi đáng ghi nhận. Tỷ lệ học sinh thành thạo đọc, viết, giải toán và tự chủ động ngày càng nhiều hơn.
Muốn nâng cao chất lượng giáo dục miền núi nói chung và với mô hình VNEN nói riêng, từ trước thềm năm học mới, Phòng GD-ĐT huyện Đakrông đã chủ động phối hợp mở lớp tập huấn về tiếng dân tộc cho gần 100 giáo viên cắm bản với thời lượng 450 tiết. Thầy Mai Huy Phương, Trưởng phòng GD-ĐT huyện Đakrông, nhấn mạnh: “Hướng tới việc phổ cập giáo dục các cấp, đối với các huyện miền núi như Đakrông, giáo viên cắm bản đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, để đạt được thành quả là cả một quá trình nỗ lực gấp bội, thậm chí gấp nhiều lần của giáo viên. Bởi, chỉ có cách cùng ăn, cùng ở, cùng am hiểu tâm tư nguyện vọng cũng như phong tục tập quán của đồng bào mới có thể vận động họ đưa con em tới trường”.
Thành quả đáng ghi nhận
Theo đánh giá của nhiều giáo viên đứng lớp, sau hơn 1 năm triển khai mô hình VNEN đã có một sự thay đổi lớn trong tư duy nhận thức của học sinh vùng cao. Các em mạnh dạn và tự tin hơn trong học tập cũng như trong giao tiếp. Chất lượng tiết học cũng được nâng cao rõ rệt. Với việc chọn học sinh làm trung tâm, hầu hết hoạt động dạy – học đều được thực hiện theo nhóm. Các em cùng nhau thảo luận và đưa ra những đáp án cuối cùng cho mỗi câu hỏi, bài toán, điều đó góp phần hình thành thói quen làm việc trong môi trường tương tác; từ đó rèn luyện được nhiều kỹ năng trong học tập cũng như trong cuộc sống. Cô Nguyễn Thị Hồng Lĩnh phấn khởi nói: “Vượt qua những rào cản ban đầu về ngôn ngữ, phương pháp giảng dạy, các em học sinh học theo mô hình VNEN ở vùng cao bây giờ đã có thể tự tin thể hiện mình. Các em không còn thụ động theo kiểu bảo gì làm đó, đọc gì chép đó nữa mà mạnh dạn trao đổi bài với nhau, với cô giáo để tìm ra lời giải”.
Cô Trần Thị Phương Lan, Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Số 1 Hướng Hiệp (huyện Đakrông), cho biết: “Xã Hướng Hiệp có tất cả 3 điểm trường với trên 300 học sinh, trong đó con em đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 90%. Sau 1 năm, trường đã tăng số lượng lớp học áp dụng mô hình dạy học mới này từ 7 lớp lên 10 lớp. Nhìn chung, dạy học theo mô hình VNEN giúp học sinh phát huy tính tự học, sáng tạo, tự tin, hứng thú với bài học. Đây là phương pháp dạy học mới, giúp các em phát huy tốt các kỹ năng như giao tiếp, kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học…”.
Trong khi đó, thầy Nguyễn Sỹ Huấn, Phó phòng GD-ĐT huyện Đakrông, cho biết toàn huyện Đakrông có 4 điểm trường được chọn áp dụng mô hình dạy học mới VNEN, gồm: Trường Tiểu học Số 2 Đakrông, Trường Tiểu học Số 1 Hướng Hiệp, Trường Tiểu học và THCS A Ngo, Trường Tiểu học và THCS Tà Long. Mặc dù vừa được tiếp cận cách dạy học mới với kỹ thuật dạy tương tác cao, các điều kiện hỗ trợ còn thiếu song giáo viên tại các trường đã thâm nhập tốt, linh hoạt trong tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp, thể hiện được tinh thần đổi mới đem lại cơ hội trải nghiệm cho học sinh. Tuy nhiên, khi áp dụng mô hình này vào các trường vùng khó như huyện Đakrông vẫn còn nhiều bất cập do cơ sở vật chất, kỹ thuật dạy học chưa đáp ứng đầy đủ…
Bài, ảnh: Phan Vĩnh Yên
| Theo thống kê, từ năm học 2012-2013, Sở GD-ĐT Quảng Trị đã áp dụng mô hình dạy học VNEN cho 32 trường học trên toàn tỉnh. Trên cơ sở kế thừa những mặt tích cực của nội dung giáo dục truyền thống, kết hợp với đổi mới phương pháp dạy và học, chất lượng giáo dục trong các trường học dần được nâng cao, đặc biệt với những môi trường giáo dục thụ động tại các địa bàn miền núi. |


Bình luận (0)