Theo TS. Lê Vinh Quốc (nguyên Phó hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TP.HCM), với những điều kiện về cơ sở vật chất, cơ chế quản lý – điều hành giáo dục và cả hệ thống tổ chức nhà trường như hiện nay, chúng ta rất khó để thực thi những nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.
“Nửa nạc, nửa mỡ”
TS. Lê Vinh Quốc cho biết, kiểu chương trình học được thể hiện trong bản dự thảo này cũng có những vấn đề cần xem xét. Khoa học giáo dục hiện đại đã chỉ rõ 3 kiểu đang được áp dụng trên thế giới là chương trình học đồng nhất (uniform curriculum), chương trình phân ban (divisional curriculum) và chương trình tự chọn (elective curriculum). Chương trình THPT dự thảo (từng được bộ gọi là “chương trình phân hóa”) cũng không vượt khỏi giới hạn của 3 kiểu chương trình trên. Ở bậc tiểu học và THCS vẫn áp dụng chương trình đồng nhất (có thêm chút ít nội dung tự chọn) nên không có nhiều vấn đề phải bàn. Đáng lưu ý là chương trình THPT được thiết kế theo kiểu chương trình tự chọn của Mỹ và có thêm sự lẫn lộn với chương trình phân ban đã thất bại ở Việt Nam trong thời gian qua. Chương trình này vẫn giữ nguyên quan niệm sai lầm xưa cũ tách rời dạy nghề ra khỏi giáo dục phổ thông và giáo dục ĐH, nên bộ môn công nghệ trong chương trình chỉ là để định hướng nghề nghiệp, mà lẽ ra – như chương trình của các nước tiên tiến – đó phải là những môn dạy nghề để học sinh có thể hành nghề sau khi tốt nghiệp THPT. Cách tích hợp các môn trong hai lĩnh vực khoa học tự nhiên (lý, hóa, sinh) và khoa học xã hội (văn, sử, địa) để học sinh chọn học (như chương trình phân ban đã sụp đổ) dẫn tới những sai lầm khi xác định các môn bắt buộc (cốt lõi) với các môn tự chọn (kể cả tự chọn tùy ý, tự chọn trong nhóm môn học và tự chọn trong môn học).
Theo dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, học sinh sẽ giảm áp lực học tập do được giảm số môn học. Ảnh: Anh Khôi |
Một thí dụ để so sánh: Chương trình tự chọn của Mỹ tích hợp lịch sử với giáo dục công dân thành bộ môn tìm hiểu xã hội (social study) và coi đây là môn cơ bản, đồng thời là cốt lõi nên bắt buộc toàn thể học sinh phải học. Còn cách tích hợp và phân loại trong chương trình dự thảo của Bộ GD-ĐT sẽ biến lịch sử thành môn tự chọn (mà rất ít người chọn!) khiến môn cơ bản này có khả năng tiêu biến trong chương trình học. Cách tích hợp đó làm nảy sinh 2 môn hỗn hợp từ nhiều môn: Môn khoa học tự nhiên (cho lĩnh vực khoa học xã hội) và môn khoa học xã hội (cho lĩnh vực khoa học tự nhiên). Đây là những môn thiếu cơ sở khoa học và cũng không đủ khả năng để tiến hành giảng dạy. Tương tự như vậy, việc tách “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo” và “Nghiên cứu khoa học kỹ thuật” ra khỏi các môn học truyền thống sẽ đặt ra vấn đề: Ai sẽ dạy các hoạt động này? Và dạy như thế nào trong khi đội ngũ giáo viên hiện chỉ quen với các môn học truyền thống; còn các trường sư phạm hiện hành không đào tạo giáo viên dạy các môn mới lạ này?
Bên cạnh đó, việc xác định 4 môn học bắt buộc trong chương trình THPT chỉ có tác dụng tích cực trong việc luyện thi tuyển sinh ĐH-CĐ, mà chưa chắc đã đủ để đáp ứng mục tiêu phát triển nhân cách con người.
Thiếu điều kiện để thực thi
Việc xác định 4 môn học bắt buộc trong chương trình THPT chỉ có tác dụng tích cực trong việc luyện thi tuyển sinh ĐH-CĐ, mà chưa chắc đã đủ để đáp ứng mục tiêu phát triển nhân cách con người. |
Nếu đối chiếu với chương trình học tự chọn theo khuôn mẫu quốc tế, thì chương trình dự thảo của Bộ GD-ĐT còn thiếu rất nhiều điều kiện để có thể thực hiện tốt. Chương trình học tự chọn của Mỹ phải có một quỹ các môn học vô cùng phong phú trên mọi lĩnh vực giáo dục mà ở Việt Nam chưa thể có được. Nó cũng đòi hỏi rất nhiều phòng học (với các trang thiết bị chuyên dùng) để tổ chức lớp học cơ động theo môn học, chứ không theo các lớp học cố định như ở Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, việc lựa chọn môn học không chỉ theo ý muốn chủ quan – cảm tính của học sinh, mà phải có sự hướng dẫn của đội ngũ cố vấn học tập (councellor) để chọn được đúng môn trưởng (major) và các môn thứ (minor) thì chương trình tự chọn mới có đủ giá trị khoa học. Bên cạnh đó, quy trình dạy học phải áp dụng học chế tín chỉ (credit) chứ không theo niên chế như ở Việt Nam hiện nay.
Muốn đáp ứng đầy đủ những điều kiện trên, chúng ta chẳng những phải đầu tư rất nhiều cho cơ sở vật chất nhà trường, mà quan trọng hơn là phải đổi mới toàn bộ công tác đào tạo giáo viên và chuyên gia giáo dục, đổi mới toàn bộ cơ chế quản lý – điều hành giáo dục và cả hệ thống tổ chức nhà trường. Đó là những khó khăn mà chúng ta phải vượt qua nếu muốn thực hiện thành công chương trình giáo dục phổ thông tổng thể theo dự thảo của Bộ GD-ĐT.
Ngọc Anh (ghi)
Học sinh sẽ chủ động và sáng tạo hơn Bản dự thảo giúp ta hình dung một chương trình giáo dục phổ thông được đổi mới rất nhiều theo hướng tích cực khi so sánh với chương trình giáo dục hiện hành. Cụ thể, sự nặng nề quá tải với những kiến thức “hàn lâm” của chương trình hiện hành đã được thay thế bằng một chương trình linh hoạt và năng động hơn với sự tích hợp và liên kết các môn học tiếp cận được với khoa học giáo dục hiện đại. Vai trò bị động và thụ động của học sinh được chuyển thành chủ động và sáng tạo hơn bằng các môn học tự chọn tăng dần theo từng cấp lớp. Tuy nhiên, dự thảo cũng cho thấy những sự bất cập và nhược điểm của chương trình dự kiến hình thành. TS. Lê Vinh Quốc |
Bình luận (0)