|
Một tiết học giảng văn ở Trường THCS Cửu Long (Q.Bình Thạnh). Ảnh: N.Q
|
Ngoài những cuốn sách dạy ngữ văn như Tứ thư, Ngũ kinh… nhà trường nước ta thời phong kiến còn dạy ngữ văn cho học trò bằng sách giáo khoa do người Việt biên soạn bằng chữ Nôm.
1. Đầu tiên là sách Nhất thiên tự (1.000 chữ), thực ra là 1.015 chữ, đặt theo thể lục bát để dễ thuộc, dễ nhớ. Các chữ sắp đặt tùy tiện, không theo thứ tự và không có ý nghĩa gì. Ví dụ: Thiên trời, địa đất, vân mây/ Vũ mưa, phong gió, trú ngày dạ đêm/ Tinh sao, lộ móc, tường điềm/ Hưu lành, kháng phúc, tăng thêm, đa nhiều. Thứ hai là sách Tam tự kinh (3.000 chữ) là cuốn sách dạy về ngữ văn đơn giản. Trong cuốn sách chữ và nghĩa kế tiếp nhau thành từng đoạn hai tiếng một, cứ tiếng cuối đoạn trên ăn vần với tiếng đoạn cuối. Các chữ sắp đặt không thành loại mục, ý nghĩa gì cả. Thứ ba là sách Ngũ thiên tự (5.000 chữ) là một cuốn sách học chữ. Trong cuốn sách chữ và nghĩa ghép lại theo thể ca lục bát như cuốn Nhất thiên tự nhưng các chữ đều sắp xếp theo mục. Ví dụ: Thừa nhân, nhàn vắng, hạ rồi/ Càn trời, khôn đất, tài bồi, trồng vun/ Tích xưa, tự chữ, do còn/ Quan xem, soạn soạn, viên tròn, thiên thiên. Thứ tư là sách Sơ học vấn tân (bắt đầu học hỏi) gồm 270 câu 4 chữ, câu đặt không có vần, nhiều câu không đối. Và cuối cùng là sách Ấu học ngũ ngôn thi (thơ 5 tiếng để dạy trẻ học) gồm 278 câu thơ ngũ ngôn, nói về hứng thú và kết quả học tập của một người học trò mong muốn thi đậu Trạng nguyên nên còn gọi là “Trạng nguyên thi”.
2. Các sách dạy ngữ văn chữ Nôm nói trên nội dung đều sơ lược, chủ yếu là dạy nghĩa chữ, tính chất văn học chưa được chú ý. Nhiều bài văn, bài thơ hay chưa được dẫn giải tỉ mỉ, việc bình luận, chú thích còn sơ lược làm cho học trò chủ yếu nhớ mặt chữ, thuộc nghĩa máy móc mà chưa biết cảm thụ giá trị của văn chương. Ngoài các sách dạy và học ngữ văn trong nhà trường thời phong kiến không có những cuốn sách dạy về việc bình văn, bình thơ để giúp cho người dạy và người học lĩnh hội, cảm thụ văn chương. Phần lớn việc cảm thụ văn chương là qua học văn bản thi, thư, kinh, truyện, Đường thi, Tống thi. Nhiều áng văn chương tiêu biểu của ông cha ta viết bằng chữ Hán, chữ Nôm không được đưa vào giảng dạy và phân tích ở trong nhà trường ngay cả Trường Đại học Quốc Tử Giám tại Thăng Long. Các trường ở các châu, quận, huyện đều chỉ học thơ, phú, kinh nghĩa… chứ ít khi lưu tâm đến việc bình luận thơ văn, phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Đề bài thi trong chương trình phần nhiều hỏi đến việc nhớ mặt chữ, giải nghĩa từ hay chép thuộc lòng các đoạn thơ, văn, chứ không nhằm cho người học phát huy những cảm thụ nhạy bén về văn chương. Người dạy là những ông đồ Nho thiên về dạy chữ, giảng nghĩa theo lối “tầm chương trích cú”, “sao lục” thường thấy trong cách dạy học của thời Đường, Tống ở Trung Quốc. Nhiều nhà thơ, nhà văn, đồng thời cũng là các nhà sư phạm lớn của nước ta thời xưa như: Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Đình Chiều, Võ Trường Toản dạy học có nhiều môn đệ nhưng không để lại những trước tác cụ thể nào về việc dạy và học văn trong nhà trường.
3. Dưới thời thuộc Pháp tính chất của việc dạy và học trong nhà trường có nhiều thay đổi. Số lượng sách dạy và học văn được tăng lên, phương pháp giảng dạy văn học cũng được chú ý hơn. Một số sách trích giảng văn học được xuất bản, có tác dụng đến việc giảng dạy văn học ở trong nhà trường. Đó là các cuốn như: Quốc văn trích diễn (Nghiêm Hàm, Hà Nội, 1925) và Việt văn giáo khoa thư (Nha học chính đông Pháp, 1940); Việt Nam văn học sử yếu (Nha học chính đông Pháp, 1944) của Dương Quảng Hàm; Việt văn dẫn giải (Hà Nội, Nam Kỳ, 1932) của Trần Tuấn Khải; Quốc văn cụ thể của Bùi Kỷ (Tân Việt, Sài Gòn tái bản); Thi văn bình chú của Ngô Tất Tố (Tân Dân, Hà Nội, 1942-1943); Quốc văn khảo biên (tác quyền, Nhà in Thực Nghiệp 1922); Việt văn hợp tuyển giảng nghĩa của Lê Thành Ý và Nguyễn Hữu Tiến (Hà Nội Imprimere Toncunoise, 1930).
Tuy còn nhiều hạn chế nhưng những cuốn sách giáo khoa ngữ văn trên đây bước đầu đã chú ý đến việc nêu bật tầm quan trọng của việc bình văn, giảng thơ trong nhà trường. Các sách cũng đã giới thiệu những bài trích tuyển văn học tiêu biểu các loại thể trong nền văn học dân tộc từ văn học Lý, Trần, Lê đến Nguyễn sơ và các giai đoạn văn học kế tiếp. Phương pháp giảng văn được trích ra trong các sách biên soạn trên đây là nêu xuất xứ, chủ đề, bố cục của từng bài văn từ đó nêu bật một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật. Vì vậy, ranh giới giữa cuốn sách về văn học sử và sách dạy về văn học ở trong nhà trường chưa rõ ràng.
4. Trước Cách mạng Tháng 8, từ các trường Bưởi (Chu Văn An) ở Hà Nội đến Trường Cao đẳng Conle ở Vinh, Đồng Khánh (Huế); Võ Trường Toản, Pétrus Ký ở Sài Gòn… chúng ta chưa có những cuốn sách giáo khoa giảng dạy văn học nào đáng chú ý. Cách trích tuyển, giảng giải từng bài văn, bài thơ vẫn là phương pháp cổ điển là chủ yếu. Mối quan hệ giữa tác phẩm với người giảng dạy văn học còn tách rời. Giá trị nội dung và nghệ thuật của từng bài văn, bài thơ chưa được người giảng chú ý phân tích cụ thể. Từ sau Cách mạng Tháng 8, việc giảng dạy văn học ở từng nhà trường có sự đổi mới rõ nét. Việc giảng văn học sử, giảng văn, bình chú, phẩm bình, phân tích tác phẩm văn học được chú ý hơn. Người có công “khai sơn phá thạch”, “đột phá” trong lĩnh vực giảng dạy tác phẩm bằng phương pháp giảng văn trước hết phải kể đến Dương Quảng Hàm thể hiện trong cuốn Việt Nam văn học sử lược; Đặng Thai Mai trong sách Giảng văn Chinh phụ ngâm. Đặc biệt tác phẩm Giảng văn Chinh phụ ngâm của Đặng Thai Mai dù ngắn, còn đơn giản, sơ lược so với hiện nay nhưng thời bấy giờ có thể nói là viên gạch lát đường cho môn giảng văn trong nhà trường. Cũng như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh có nhiều khám phá, sáng tạo và cách tân giảng văn theo phương pháp mới thể hiện trong tác phẩm Phê bình và tiểu luận. Cùng với Thi nhân Việt Nam, Phê bình và tiểu luận của Hoài Thanh rất có giá trị lâu dài đối với việc giảng dạy văn học trong nhà trường các cấp.
Ở miền Bắc, từ sau hòa bình lập lại (1954) ngành văn các trường đại học đều coi môn giảng văn quan trọng không kém môn văn học sử. Các giáo sư Đặng Thai Mai, Hoàng Như Mai, Lê Trí Viễn, Trần Thanh Đạm… là những người đi đầu và đạt được nhiều kết quả trong môn giảng văn làm cho sinh viên yêu thích văn học. Những bài giảng văn ở đại học của GS. Lê Trí Viễn và Giảng dạy tác phẩm theo thể loại của GS. Trần Thanh Đạm có thể coi là những công trình giảng văn bổ ích, thiết thực. Từ một môn học khó, khô ngày nay giảng văn được thầy, cô giáo giảng dạy văn học trong nhà trường các cấp hào hứng, kiếm tìm và có nhiều đổi mới để gây nên sự hứng thú dạy, học văn.
Nếu Dạy văn là một niềm vui lớn (Tố Hữu) thì giảng văn thực sự là niềm vui, là cầu nối giữa cuộc đời với văn học, giữa tác phẩm và công chúng, người đọc mà ở đây là đối tượng học sinh, sinh viên. Có thể nói Việt Nam là một trong số ít quốc gia coi trọng môn giảng văn và coi giảng văn là thước đo của việc dạy, học văn trong nhà trường.
PGS. Hồ Sĩ Hiệp
| Hiện nay, nhìn chung việc giảng văn ở các cấp học trong nhà trường có được quan tâm về nhận thức nhưng chất lượng không cao, hiệu quả đưa lại cho người dạy và học không nhiều. Có nhiều nguyên nhân nhưng theo chúng tôi càng về sau người thầy có tâm huyết, năng khiếu về văn học không nhiều. Họ ít có sự “cảm” và “thụ” sâu sắc, chân thành với tác phẩm văn chương, đó là chưa kể những tác phẩm giảng văn còn “khó”, “khô” và “quá tầm” đối với người dạy cũng như người học môn giảng văn. |


Bình luận (0)