|
Một tiết học văn ở Trường THCS Cửu Long (Q.Bình Thạnh). Ảnh: Hương Thủy |
Trong nghiên cứu văn bản văn học (VBVH), có thể nói các hướng tiếp cận phê bình – đọc hiểu VBVH giống như chiếc la bàn định hướng “kim chỉ nam cho mọi hành động”. Đây cũng là chuyên đề Sở GD-ĐT TP.HCM tổ chức tập huấn cho giáo viên (GV) dạy văn THCS vừa qua tại Trường THPT Lương Thế Vinh và THCS Nguyễn Văn Phú (Q.11).
Theo ông Hoàng Phong Tuấn, giảng viên Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP TP.HCM, khi tiếp cận phê bình – đọc hiểu VBVH, GV phải tuân thủ theo các hướng mang tính quy tắc như: Xét mối quan hệ giữa VBVH với thực tại lịch sử, mối quan hệ giữa VBVH và tác giả, giữa VBVH và các văn bản khác…
Nữ quyền luận trong sáng tác
Đánh giá mối quan hệ giữa VBVH và thực tại lịch sử không thể không đề cập đến chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa tân duy sử và chủ nghĩa hậu thực dân. Trong các trào lưu đó đặc biệt nhất là khái niệm về nữ quyền luận. Lý giải vấn đề này, ông Tuấn cho biết, trong bất kỳ thời đại nào văn học cũng chịu ảnh hưởng của lịch sử và văn hóa, trong đó có lịch sử văn hóa trọng nam. Chính trong nền văn hóa “đặc biệt” này mà tiếng nói của nữ giới bị áp chế, đè nén; hình ảnh người phụ nữ thường được cấu tạo mặc định theo ý thức nam quyền. Hướng tiếp cận nữ quyền luận chính là lối mở mới để xem xét lại hình ảnh người phụ nữ, mặc dù vai trò của họ rất mong manh trong sáng tác và phê bình văn học. Đây cũng là một sự công phá nhằm làm vỡ tung những hệ chuẩn đã từng được xem là duy nhất đúng trong quan điểm giới tính sai lệch trước đây. Điều này được thể hiện rõ trong những sáng tác tuyệt bút của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan và cả nhà thơ nữ Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ… sau này. Không thiếu những vần thơ quả cảm của chị em kiểu như: “Ví đây đổi phận làm trai được/ Thì sự anh hùng há bấy nhiêu” muốn làm rung chuyển thành lũy kiên cố của chế độ phong kiến “nhất bên trọng nhất bên khinh”.
Đi sâu tìm hiểu căn nguyên, ông Tuấn cho rằng, mặc dù khác nhau về giới tính nhưng do nhận thức về giới lệch lạc nên trong sáng tác cán cân thường nghiêng hẳn sang một phía. Thực tế sáng tác cho thấy sự phũ phàng là không chỉ nhà văn nam coi trọng đàn ông mà nhà văn nữ cũng thường bị nam tính hóa nên mang nhiều suy nghĩ và quan điểm của… các anh em. Để minh chứng rõ hơn điều này, ông Tuấn đã mượn thêm một bài dịch từ nước ngoài nhằm soi rọi thêm xu hướng tiếp cận phê bình văn học nữ quyền. Từ cột mốc tư tưởng nữ quyền luận hiện đại vào những năm 1970, nhiều công trình và tác phẩm liên quan đến nữ quyền luận đã trở thành một hồi chuông cảnh tỉnh có ý nghĩa xã hội lớn lao trên văn đàn tại các nước phương Tây. Người nghiên cứu – khi xét mối quan hệ giữa VBVH và tác giả – cần phải chú ý đến các khái niệm như chủng tộc, môi trường, thời đại (phê bình thực chứng); cuộc đời, biến cố, sự kiện (phê bình tiểu sử); vô thức, biểu tượng, người mẹ (phê bình phân tâm học). Có thể coi chúng là thế “kiềng 3 chân” về mối thâm giao giữa VBVH và nhà văn.
Chủ nghĩa cấu trúc là gì?
Thế “kiềng 3 chân” đó cũng được thể hiện trong đặc trưng của văn bản khi đề cập tới các khái niệm như: Lạ hóa, ngôn ngữ thi ca, cấu trúc song hành (chủ nghĩa hình thức Nga); sự thống nhất hữu cơ, độ căng, nghịch lý (phê bình mới); cấu trúc bề mặt, cấu trúc bề sâu, điểm nhìn tự sự (chủ nghĩa cấu trúc). Luận đề cơ bản của chủ nghĩa cấu trúc là hoạt động của con người, sản phẩm và sự tri giác của nó từ trong bản chất chứ không phải là cái gì tự nhiên, ngẫu nhiên mà được cấu trúc hóa. Nói cách khác, cấu trúc là nguyên tắc kiến tạo và đối tượng phân tích, liên hệ đến cặp khái niệm hệ thống/ giá trị trong ký hiệu học. Theo các nhà phê bình văn học, tự sự học là một nhánh quan trọng của chủ nghĩa cấu trúc. Quan điểm chính của tự sự học là cấu trúc bề sâu được tạo ra trong tiến trình người đọc tham gia tương tác văn bản trên các cấp độ trần thuật khác nhau. Không ai phủ nhận, văn bản thơ ca được tạo bởi quan hệ tương đồng và đối lập. Vì thế phân tích văn bản thơ ca là phát hiện các quan hệ này ở các cấp độ: Ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa… Mặt khác phân tích cấu trúc ẩn dụ, hoán dụ sẽ tạo ra các liên tưởng nghĩa dựa trên quan hệ tương đồng: Đôi chim chuyền – uyên ương (Đây mùa thu tới – Xuân Diệu); dòng sông – dòng đời (Tràng giang – Huy Cận); bát cháo hành/ hơi cháo hành (Chí Phèo – Nam Cao). Phân tích cấu trúc bề sâu lại được thể hiện trên quan hệ giữa các đơn vị, nhân tố và sự biến đổi của chúng trong cấu trúc (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Phân tích ngữ pháp truyện kể lại bao gồm: Tự sự học, các cấp độ tự sự, các điểm nhìn và các mô hình tự sự, thời gian và không gian tự sự. Trong đó chủ yếu xem xét hai bình diện: Cái gì được kể và cái đó được kể như thế nào. Cần lưu ý, phân tích văn bản theo tự sự học đòi hỏi những thao tác hết sức phức tạp.
Khi xét mối quan hệ giữa VBVH và người đọc chúng ta cần xác định rõ khái niệm: Chân trời, vòng tuần hoàn thông diễn, sự hòa trộn chân trời (thông diễn học). Đồng thời hiểu sâu hơn các khái niệm như: Ảnh hưởng, tiếp nhận, phóng tác… (nguồn gốc và ảnh hưởng); đề tài, chủ đề, thể loại (lịch sử đề tài, chủ đề, thể loại); văn bản, liên văn bản, đối thoại (liên văn bản)…
Phan Ngọc Quang


Bình luận (0)