|
Một tiết học môn ngữ văn. Ảnh: A.Khôi |
Đối với văn học Việt Nam, do có tính chất điển phạm cao nên việc phân tích theo lối thi pháp cấu trúc là điều thuận lợi. Đó cũng là một hướng tiếp cận, phê bình và đọc hiểu văn bản, nhất là các tác phẩm thơ trong chương trình phổ thông.
Tổ chức thi pháp của thơ Đường, tiểu thuyết chương hồi, ngâm khúc luôn gây sự chú ý đối với các nhà thi pháp học cấu trúc. Sự tổ chức theo chiều ngang các yếu tố tương đồng thường xuất hiện dày đặc trong thơ ca phương Đông. Ví dụ trong Truyện Kiều: “Làm cho, cho mệt cho mê/ Làm cho đau đớn ê chề cho coi” (lặp âm tiết “cho”, lặp từ “cho coi”). Trường hợp khác: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (lặp các phụ âm l). Một biến thể khác của nguyên lý nhị phân theo chủ nghĩa cấu trúc là sự song hành trong cấu trúc văn bản thơ. Song hành tương đồng như: “Gìn vàng/ giữ ngọc cho hay/ Cho đành lòng kẻ chân mây/ cuối trời” hoặc: “Trai anh hùng/ gái thuyền quyên”, “Vó câu khấp khểnh/ bánh xe gập ghềnh”. Còn song hành đối lập: “Sen tàn/ cúc lại nở hoa”, “Người ngoài cười nụ/ người trong khóc thầm”, “Người vào chung gối loan phòng/ Kẻ ra tựa bóng đèn chong canh dài”. Cấu trúc tự sự của Truyện Kiều cũng là một tổ chức song hành độc đáo. Đó là sự đối lập trong hành trình của hai nhân vật chính theo hai con đường trái ngược nhau: Kiều đi ra từ không gian nhỏ, đóng kín (Êm đềm trướng rủ màn che). Do biến cố lại rơi vào một không mở không biết phía trước là gì (Cũng liều nhắm mắt đưa chân) đến không gian bị chia cắt, băm nát (Vầng trăng ai xẻ làm đôi). Cuối cùng chết trong không gian lưu đày (Trông vời con nước mênh mông/ đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang).
Tuy nhiên cấu trúc nhị phân khó nhận ra hơn trong văn học hiện đại nhưng dù sao sự phân tích cần nhất vẫn là nhìn ra sự đối lập cơ bản. Bài Nguyệt cầm (Xuân Diệu) có cấu trúc đối lập: Âm nhạc – thiên nhiên (dây cung – trăng ngần, đàn buồn – trời trong, câu hát – bến Tầm Dương, ánh nhạc – sao Khuê…). Sự đối lập ở đây không phải đối lập đàn áp, loại trừ mà là mang tính thống nhất. Thống nhất giữa âm nhạc với thiên nhiên đó là hình mẫu của cái đẹp. Làm nên sự thống nhất đó là cái buồn và cái sầu. Buồn, sầu là cái đẹp của mỹ học chủ nghĩa lãng mạn. “Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh/ Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”. Mở đầu thiên nhiên hòa nhập vào âm nhạc, hoàn kết là âm nhạc nhập vào thiên nhiên.
Ở miền Nam trước năm 1975 cũng có lúc chủ nghĩa cấu trúc được giới thiệu rộng rãi. Các tác giả nhiệt tình với công việc này là Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Thiện Đạo. Những bài viết của Trần Thiện Đạo sau này được tập hợp lại trong cuốn Chủ nghĩa hiện sinh và thuyết cấu trúc. Đáng chú ý nhất là những bài viết của Trần Thái Đỉnh trên tạp chí Bách khoa Thời đại. Chủ nghĩa cấu trúc trong các khoa học nhân văn được ông thuật lại một cách khá mạch lạc. Tuy nhiên, ngay cả ở miền Nam lúc đó những tác phẩm của các nhà cấu trúc luận cũng được dịch rất ít nên dù sao những trao đổi cũng vẫn là giữa các nhà Tây học với nhau. Hơn nữa nội dung trao đổi vẫn còn sơ sài, nhất là lĩnh vực lý thuyết văn chương.
Cuối cùng phải thừa nhận rằng, thuyết cấu trúc không dễ hiểu. Những công trình phân tích văn bản của các nhà cấu trúc luận gây khó khăn thực sự cho những ai không nắm được tri thức về ngôn ngữ học và ký hiệu học. Đấy là chưa nói đến tri thức về những chuyên ngành cụ thể.
PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh
(Trưởng phòng Lý luận văn học, Viện Văn học Việt Nam)


Bình luận (0)