Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Những vấn đề về văn mẫu

Tạp Chí Giáo Dục

GV Trường THCS Kim Đồng (Q.5) dò bài HS (môn văn) chuẩn bị cho kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 năm 2012. Ảnh: Anh Khôi

Hiện nay, việc dạy học văn mẫu (VM) khá phổ biến, xuất phát từ nhu cầu thực tế của cả người dạy lẫn người học. Tuy nhiên, việc sử dụng VM như thế nào để thực sự mang lại hiệu quả giáo dục đang còn là vấn đề tranh cãi.
Trước hết, cần hiểu VM là những bài văn đạt được các chuẩn mực nhất định về nội dung, cấu trúc, cách diễn đạt… VM là bài viết của cá nhân. Vì vậy, người viết VM không hạn chế, đó có thể là bài viết của giáo viên (GV), của học sinh (HS), của người nghiên cứu văn học, của những người ngoài lĩnh vực giáo dục… Điều quan trọng là bài viết đó phải đạt những yêu cầu cần thiết cho mục đích giao tiếp nhất định.
Thế nhưng, tình trạng HS được học VM của chính GV hiện đang trở thành một nỗi lo lắng lớn trong học đường. Vì sao có tình trạng này? Vì nội dung kiến thức của môn ngữ văn quá nhiều, trong khi thời gian để HS thẩm thấu đối với từng tác phẩm, mỗi kiểu văn bản quá ít. HS ở mỗi cấp lớp sẽ được tiếp cận những kiểu văn bản nhất định. Tuy nhiên, phần lớn các em mới dừng lại ở việc nhận diện văn bản và viết được cơ bản đúng nội dung, yêu cầu văn bản. Khi chưa kịp thẩm thấu kiểu văn bản này, các em lại được học sang kiểu văn bản mới. Ví dụ, lớp 6 các em được học kiểu bài tự sự và miêu tả. Sau đó, lớp 7 các em được học kiểu bài biểu cảm, nghị luận… Như vậy, việc tiếp nhận mỗi kiểu văn bản bị đứt đoạn và khả năng liên kết các kiểu bài trong một văn bản của các em chưa cao. Trong khi đó, phần lớn những bài văn đạt điểm cao thường là những bài có sự liên kết các yếu tố, các kiểu văn bản với nhau. Đơn cử, khi viết bài kể lại ngày đầu tiên đi học của em, bài viết nào các em chỉ kể lại trình tự những sự việc diễn ra trong ngày đầu tiên đi học một cách đơn giản thì sẽ không thể đạt điểm tốt hơn bài viết các em sử dụng kết hợp tự sự với miêu tả, biểu cảm, nghị luận… Muốn giúp các em có được sự liên kết này, đòi hỏi có nhiều thời gian để hướng dẫn, sửa chữa, rèn luyện. Tuy nhiên, thời gian dành cho môn học lại không cho phép. Vì vậy, con đường ngắn hơn để có điểm cao, kết quả thi tốt mà ít tốn thời gian, công sức đó là dùng chính VM của GV. Mặt khác, có một bộ phận HS lười suy nghĩ, học tập; một số khác thì chán ghét môn văn. Điều này làm cho việc dạy học môn văn trở nên nặng nề cho cả GV lẫn HS. Vì vậy, mỗi khi đến mùa kiểm tra hay mùa thi, VM trở thành cứu cánh đối với không chỉ người học.
Tìm giải pháp để khắc phục tình trạng HS phụ thuộc vào VM của chính GV thực sự là câu hỏi lớn. Việc này đòi hỏi sự chung tay của nhiều phía. Chương trình học – GV – HS – cách kiểm tra, đánh giá, đó là bốn mắt xích quan trọng trong việc tìm lời giải. Chương trình học gắn với nội dung kiến thức và thời gian học. Điều quan trọng là làm cách nào để GV – HS hứng thú với chương trình học, cách kiểm tra – đánh giá của môn văn. Khi đã có hứng thú, việc khơi gợi mọi người tham gia vào trò chơi ngôn từ của môn văn trong cách diễn đạt, cách nói – viết sẽ không quá khó. Và từ trò chơi ngôn từ văn học đó, chúng ta sẽ có những bài văn độc đáo mang đậm cá tính sáng tạo của cá nhân, không phải là những bài VM được sao chép.
Với ý kiến cá nhân, theo tôi, VM không có tội, có chăng là chính cách sử dụng VM mới là nguyên nhân làm VM bị biến chất. VM là phương tiện cần thiết trong quá trình dạy học văn của GV – HS. Tuy nhiên, cần biết cách sử dụng VM đúng lúc, đúng nơi và đúng mục đích; không được lạm dụng. Ví dụ, dạy cho HS lớp 7 về văn nghị luận, GV giảng khi viết văn nghị luận, các em phải dùng luận điểm, luận cứ, lập luận. Tuy nhiên, tư duy HS lớp 7 chưa đủ sắc sảo để hiểu hết ý nghĩa, cách dùng luận điểm, luận cứ, lập luận. Vì vậy, GV phải dùng một bài VM cụ thể phân tích, chỉ ra cho các em biết cách lập luận, biết xây dựng hệ thống luận điểm, luận cứ. Mặt khác, sau khi HS đã hiểu được cách dùng luận điểm, luận cứ, lập luận, các em sẽ viết còn ngập ngừng, lúng túng, khó diễn đạt. Lúc đó, GV sẽ dùng VM để hướng dẫn cho các em biết cách diễn đạt một luận điểm, triển khai luận cứ. Như vậy, khi các em đã hiểu và biết cách diễn đạt, GV tiếp tục động viên các em viết theo suy nghĩ của mình, khen ngợi những điểm hay – lạ, chỉnh sửa những điểm chưa đạt… Có như vậy, từ sự bỡ ngỡ phụ thuộc ban đầu, HS sẽ tự tin trong cách thể hiện, độc lập trong cách viết. Điều quan trọng là GV phải nhẫn nại, biết cách khơi gợi đúng sở thích, sự hứng thú của HS khi viết văn, đồng thời phải luôn khích lệ các em tự mình tìm tòi cách viết, cách diễn đạt, tìm ra con đường đi của chính mình trong mỗi bài văn. 
M. Gorki đã nói: “Văn học là nhân học”. Việc dạy học VM nếu không đúng cách, để lâu dài sẽ dẫn đến hệ lụy khó lường. Vì vậy để xây dựng nền móng tâm hồn, đạo đức, kiến thức cho các em, thiết nghĩ, hơn bao giờ hết, mỗi GV – ngành giáo dục – xã hội cần sự thay đổi trong cách dạy học VM nói riêng, dạy học môn văn nói chung.
Trần Thị Ngọc Tâm
(GV Trường THCS Lương Định Của, Q.2)
Tìm giải pháp để khắc phục tình trạng HS phụ thuộc vào VM thực sự là câu hỏi lớn. Việc này đòi hỏi sự chung tay của nhiều phía. Chương trình học – GV – HS – cách kiểm tra, đánh giá, đó là bốn mắt xích quan trọng trong việc tìm lời giải.
 

Bình luận (0)