Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Sách giáo khoa môn ngữ văn

Tạp Chí Giáo Dục

Bốn bất cập cần thay đổi

Chương trình ngữ văn hiện hành đã có những cải tiến so với trước đây để đáp ứng mục tiêu đào tạo và thực tiễn dạy học ngữ văn ở trường phổ thông. Thực hiện nguyên tắc tích hợp, chương trình ngữ văn chú trọng theo tinh thần gắn kết phần đọc văn với tiếng Việt và làm văn.
Cấu tạo chương trình ngữ văn, nhất là phần văn học đã coi trọng sự phát triển của loại thể. Các văn bản theo các loại thể đưa vào chương trình vẫn được sắp xếp theo các giai đoạn và thời kì phát triển của văn học dân tộc. Chương trình được xây dựng như một chỉnh thể văn hóa mở thể hiện cái nhìn xuyên suốt từ tiểu học cho đến THPT.
Sách giáo khoa (SGK) ngữ văn hiện hành được biên soạn trong mối liên thông với chương trình các lớp dưới và trong mối liên kết giữa các phân môn: Văn học, tiếng Việt và làm văn. SGK có chú trọng về phương diện kĩ năng, tính thẩm mĩ và tinh thần nhân văn. Về kết cấu nội dung, những người biên soạn SGK đã cố gắng sắp xếp cho có sự gần gũi về nội dung của các văn bản nhằm thuận lợi cho việc so sánh, đối chứng… có chú ý tính tích hợp trong việc khai thác tối đa các văn bản đọc – hiểu như là những dữ liệu cơ sở cho sự hình thành khái niệm, kĩ năng.
Từ góc nhìn của một giáo viên trực tiếp giảng dạy đã hơn 20 năm, đã học tập và giảng dạy với nhiều chương trình và SGK qua các giai đoạn cải cách giáo dục, tôi thấy vẫn còn nhiều bất cập.
Thứ nhất là sự quá tải của chương trình
Với thời lượng trong kế hoạch dạy học môn ngữ văn trong chương trình THPT, với số tiết được phân bố cho các tác giả, tác phẩm được đưa vào chương trình thì việc hoàn thành chương trình quả là nhọc nhằn đối với cả thầy và trò. Để đảm bảo kế hoạch giảng dạy và bao nhiệm vụ khác trong các tiết dạy trên lớp, và cả áp lực thi cử, người giáo viên phải chấp nhận từ bỏ những cuộc giao tiếp văn chương đúng nghĩa trên lớp học để đạt được “mục tiêu bài học”. Dạy và học như thế thì những giờ dạy – học văn trên lớp đích thị là những giờ “lao động” hơn là những giờ đối thoại giữa thầy và trò trong không khí thù tạc, đàm đạo văn chương? Sự quá tải đâu chỉ là ở thời lượng, ở số lượng tác giả, tác phẩm được đưa vào chương trình mà còn là tính vừa sức, vừa tầm đón nhận đối với bạn đọc học sinh. Có những văn bản đã trở thành gánh nặng đối với học sinh và cả với người dạy dù có thể chúng ta không phủ nhận giá trị của nó. Chính sự quá tải như thế mà rất nhiều giờ văn kiểu “cưỡi ngựa xem hoa” phần nào đã tước mất sự hứng thú và say mê của học sinh. Và giáo viên cũng khó mà tạo được sự lắng đọng những ấn tượng văn chương ở các em qua những giờ văn như thế. Cả thầy và trò đều phải chạy đua với thời gian để hoàn thành kế hoạch dạy – học, để đối phó với thi cử. Mà học sinh đâu chỉ gánh chương trình môn văn?
Thứ hai là sự bất cập trong sắp xếp cấu tạo chương trình
Chương trình ngữ văn THPT được sắp xếp theo trục thể loại và các giai đoạn phát triển của văn học dân tộc. Theo đó, trong chương trình ngữ văn 10, sau phần văn học dân gian là phần văn học trung đại Việt Nam. Đây là phần mà học sinh gặp nhiều khó khăn nhất trong quá trình đọc – hiểu các văn bản. Khoảng cách thời đại, khoảng cách về văn hóa, khoảng cách thẩm mĩ, văn tự… là những rào cản khiến việc tiếp nhận các văn bản văn học trung đại gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt với đặc điểm lứa tuổi, vốn văn hóa, vốn sống của học sinh lớp 10 còn ít nhiều hạn chế nên cũng ảnh hưởng đến tầm đón nhận của các em trong tiếp nhận các tác phẩm văn học trung đại. Điều bất cập nữa là phần lớn giáo viên trẻ, giáo viên mới ra trường thường được phân công giảng dạy chương trình lớp 10 dẫu đây là phần mà cả giáo viên và học sinh gặp nhiều khó khăn trong dạy và học.
Thứ ba là sự khủng hoảng của chương trình nâng cao đối với ban KHXH
Chương trình hiện hành triển khai phương án phân ban với “chương trình chuẩn thống nhất đồng thời từng bước phát triển việc dạy và học những môn nâng cao theo các ban KHTN (có các môn nâng cao: Toán, lí, hóa, sinh), ban KHXH (có các môn nâng cao: Văn, sử, địa, ngoại ngữ) hoặc tự chọn một số môn nâng cao (ban cơ bản) nhằm phân hóa, hướng nghiệp và nâng dần trình độ của giáo dục phổ thông”. Tuy nhiên, thực tế “mô hình phân ban mới” trong trường THPT như nêu trên đã không đạt được hiệu quả như mong muốn. Ban cơ bản là sự chọn lựa của phần lớn học sinh và các trường THPT. Chương trình nâng cao đối với môn ngữ văn không còn là sự chọn lựa của các trường THPT trong kế hoạch dạy học bởi không tuyển sinh được các lớp ban KHXH. Bởi có cố tuyển lớp KHXH thì học sinh nộp đơn xét vào các lớp này không phải xuất phát từ mục tiêu định hướng nghề nghiệp vào các ngành KHXH, cũng không phải bởi yêu thích hay có năng lực học văn tốt. Thực tế cho thấy chương trình nâng cao môn ngữ văn trở nên quá sức, quá tải với đối tượng học sinh như thế. Chính vì vậy, chương trình này thực tế đã không mang lại hiệu quả mong muốn so với sự đầu tư cũng như những mục tiêu hướng tới. Chương trình nâng cao môn ngữ văn gần như chỉ là sự chọn lựa của các lớp chuyên văn trong hệ thống trường THPT chuyên.
Thứ tư là SGK chưa phát huy năng lực tự học của học sinh
Mặc dù những người biên soạn SGK quán triệt rất rõ mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông, tinh thần phát huy tính tích cực của người học – đối tượng chính của SGK nhưng thực tế cho thấy SGK ngữ văn cũng chưa thực sự đảm bảo nhu cầu tự học của người sử dụng. Cấu trúc các bài học trong SGK ngữ văn, nhất là những bài đọc văn có điểm khác là chỉ có văn bản văn học – đối tượng đọc hiểu, còn những đơn vị kiến thức cần đạt lại không được thể hiện trong SGK như các môn KHTN, các môn lịch sử, địa lí… Thực ra, chương trình và SGK hiện hành đã có nhiều nỗ lực hướng tới những mục tiêu tốt đẹp với một chương trình giáo dục hiện đại, nhân văn. Tuy nhiên, là những người trực tiếp giảng dạy và luôn ý thức làm sao để học sinh đừng thờ ơ với môn văn, chúng tôi những mong ngoài nỗ lực trau dồi nghề nghiệp của giáo viên thì những yếu tố tác động từ chương trình và SGK cũng giúp chúng tôi hứng thú hơn với bài giảng của mình và học sinh cũng sẽ tìm được niềm vui sự hứng thú từ những điều được học, thầy cô giáo sẽ có trách nhiệm khơi dậy thêm niềm vui ấy từ những tiết học trên lớp.n
Nghiêm Huê (ghi)
Bùi Kim Duyên
(GV Trường THPT chuyên Nguyễn Quang Diệu, tỉnh Đồng Tháp)

Bình luận (0)