Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Đổi mới giáo dục phải quyết liệt!

Tạp Chí Giáo Dục

Một tiết học theo mô hình “Trường học mới” (VNEN) tại Trường Tiểu học Tân Thông (huyện Củ Chi, TP.HCM).  Ảnh: N.Trinh
Tháng 10-2012, tại Hội nghị lần thứ 6 khóa XI, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành kết luận số 51-KL/TW về đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Mới đây, sau gần 1 năm chuẩn bị, Bộ GD-ĐT đã cơ bản hoàn chỉnh dự thảo Đề án đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT. Đó là những căn cứ quan trọng để Hội nghị Trung ương 8 khóa XI ban hành nghị quyết 29-NQ/TW về “về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT”.
Trong 7 quan điểm đổi mới được trình bày thuộc nghị quyết, chúng tôi quan tâm và tâm đắc 4 quan điểm: Phát triển GD-ĐT là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội (quan điểm 3). Phát triển GD-ĐT phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc… Chuyển phát triển GD-ĐT từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng (quan điểm 4). Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo… (quan điểm 5). Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển GD-ĐT đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách… (quan điểm 6). Đây có thể coi là những quan điểm mang tính đột phá, nếu được thực hiện đầy đủ, ổn định có thể góp phần quan trọng và trực tiếp vào việc tạo ra những chuyển biến cơ bản nền giáo dục nước nhà.
Đã có quan điểm đổi mới, ngành giáo dục cần thực hiện việc đổi mới giáo dục một cách quyết liệt, xin đừng nửa vời. Chúng tôi xin góp thêm một số ý kiến:
Thứ nhất, thay đổi quan niệm về “giáo dục toàn diện”. Nền giáo dục nước ta trước nay vẫn được cho là giáo dục toàn diện nhưng thực chất chưa toàn diện, vẫn còn nặng về kiến thức – mà lại quá thiên về kiến thức cho thi cử chứ không phải kiến thức để sống, để làm việc – chứ ít giáo dục về phát triển năng lực, phẩm chất, đạo đức cho người học. Nói cách khác, dạy “văn” thì nhiều nhưng dạy “lễ” còn ít và chưa thực tế, đã vậy dạy kỹ năng sống còn rất hạn chế. Cho nên sự toàn diện chỉ thể hiện ở lý thuyết, ở quan điểm chứ chưa phải trên thực tế. Vì vậy, sự đổi mới phải nhằm vào nâng chất lượng bài học/chương trình học gắn với thực tiễn (ở từng thời điểm cụ thể), nhằm nâng cao năng lực, phẩm chất và sự ứng dụng kiến thức của người học phục vụ cho cuộc sống của bản thân và gia đình. Như vậy, giáo dục toàn diện phải kết hợp đồng bộ, hợp lý giữa “văn” (kiến thức) – “lễ” (đạo đức) – “kỹ” (kỹ năng sống).
Thứ hai, phải triệt để chống bệnh thành tích và bệnh hình thức trong giáo dục. Quan điểm của đề án là “phát triển theo mục tiêu nâng cao chất lượng”, tức là ngành giáo dục đã có nhận thức chú trọng đề cao “chất” – chất lượng và thực chất. Muốn vậy thì đừng nặng nề thi đua, dễ tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh và thành tích ảo. Cần thực hiện đúng phương châm “quý hồ tinh bất quý hồ đa”, từ việc đừng ào ạt mở trường ĐH, mở các ngành, hạ tiêu chí để có nhiều học sinh giỏi, ra đề dễ để có những trường đạt tỉ lệ đậu 100%… Phải trở lại việc chống “ngồi nhầm lớp”, chống “bệnh thành tích trong giáo dục”… như đã từng thực hiện trước đây.
Thứ ba, thực hiện “mở” trong giáo dục dưới nhiều hình thức. Đó là “mở” trong các loại hình đào tạo (công lập, dân lập, tư thục, tự đào tạo…), mở trong hình thức đào tạo (chính quy, hàm thụ, từ xa…), thời gian đào tạo (bên cạnh thời gian theo khóa học còn thời gian theo năng lực và điều kiện tiếp thu của người học), quy mô đào tạo (đào tạo theo trường lớp chính quy, bán chính quy, tự tổ chức, tự học…), đối tượng đào tạo (đối tượng bắt buộc – các bậc THCS trở xuống, đối tượng động viên – THPT, ĐH, cao học…, đối tượng khuyến khích – nhóm học các lớp bổ túc, bồi dưỡng ngắn hạn…). Tức là, tùy điều kiện cụ thể, tùy đặc điểm tuổi tác, giới tính, hoàn cảnh kinh tế, vùng miền… mà có hình thức giáo dục – đào tạo phù hợp, chứ không đánh đồng, cào bằng. Trong đó, cần nhấn mạnh 2 yếu tố: Học tập toàn xã hội và học tập suốt đời.
Đây là những vấn đề lớn, có liên quan đến triết lý giáo dục, chương trình học, sách giáo khoa, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất và thiết bị, phương tiện giảng dạy, nên cần phải có sự tập trung thực hiện một cách quyết liệt, dài hơi. Do đó, ngành giáo dục phải có chiến lược, nguồn lực thực hiện một cách đầy đủ, tuyệt đối tránh tình trạng “đánh trống bỏ dùi”, “đổi mới” chỉ ít lâu rồi lại “cải cách”, sau đó lại “thí điểm”…!
Trúc Giang (TP.HCM)
Sự đổi mới phải nhằm vào nâng chất lượng bài học/chương trình học gắn với thực tiễn (ở từng thời điểm cụ thể), nhằm nâng cao năng lực, phẩm chất và sự ứng dụng kiến thức của người học phục vụ cho cuộc sống của bản thân và gia đình.
 

Bình luận (0)