|
Thí sinh thi tuyển vào lớp 6 Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa (TP.HCM) năm học 2013-2014. Ảnh: N.TRinh
|
Dân gian xưa nay vẫn quan niệm: Học tài thi phận, hàm ý “số phận” một người dù có tài hay không cũng còn phó thác cho sự may rủi.
Điều đó là hệ quả của việc học từ chương, bắt chước, còn thi cử thì phần nhiều buộc phải trả lời những kiến thức đã học theo lối thuộc lòng.
1. Cách học và thi cử đó hạn chế sự sáng tạo của học sinh, khiến người học dù giỏi nhưng đôi khi không đạt kết quả tốt nếu chỉ quên một vài chi tiết hoặc gặp câu hỏi đánh đố. Tiếc rằng cách học và cách thi đó đến nay vẫn còn tồn tại. Học sinh tiểu học thì thường xuyên phải học thuộc những bài văn mẫu để khi đi thi cứ thế mà chép hoặc sửa lại vài chi tiết cho phù hợp với đề bài. Học sinh THCS học giáo dục công dân với những vấn đề quá lớn lao so với lứa tuổi mà chỉ có cách học thuộc các em mới có thể trả lời câu hỏi, như dân chủ và kỷ luật, bảo vệ hòa bình, tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới… (lớp 9); quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, quyền tự do ngôn luận… (lớp 8); quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo, bộ máy Nhà nước… (lớp 7). Học sinh THPT học lượng giác, hàm số, tích phân… để rồi tuyệt đại đa số sẽ chẳng dùng trong thực tế, và một phần đông sẽ gần như hoàn toàn quên sau khi tốt nghiệp THPT. Như vậy, học sinh học chỉ để thi chứ không phải để biết, càng không phải để ứng dụng trong thực tế. Chính vì điều đó mà con học lớp 5 vất vả hơn bố học cao học, mỗi kỳ thi của con cái là cả gia đình lo lắng, mỗi đợt tuyển sinh cả dòng họ hồi hộp…
2. Vì áp lực thi cử nặng nề, nên để “chắc ăn” phần lớn phụ huynh và học sinh đều chọn giải pháp học thêm. Học phụ đạo tại nhà trường (học thêm chính thức!), học thêm tại nhà thầy cô, học với gia sư… Xét cho cùng, học thêm vẫn nên và cần thiết với những học sinh có sức học trung bình, dưới trung bình, bởi các em cần được giảng nhiều lần, được làm bài tập nhiều lần để thuộc, để hiểu một vấn đề. Còn hiện nay, học thêm diễn ra với hầu hết học sinh, cả các em khá và giỏi, như vậy học thêm gần như là “giải pháp” để trở thành học sinh khá giỏi! Điều đó là không nên vì góp phần làm việc học choán hết thời gian của học sinh, khiến các em không còn thì giờ để vui chơi, giải trí, rèn luyện các kỹ năng sống.
Ở đây chưa nói đến hiện tượng một số giáo viên có sự “gợi ý”, “ép buộc” học sinh đang học trên lớp của mình phải đi học thêm tại nhà, để được “gà bài” trước, được “ôn tập có trọng tâm”.
|
Hình ảnh học sinh phờ phạc với việc học, cha mẹ bạc mặt với việc đưa đón, chăm sóc con cái trong các kỳ thi… trở nên rất… bình thường với hầu hết các gia đình.
|
Nguyên nhân lớn nhất, sâu xa nhất, trực tiếp nhất chính là cách thức đánh giá và thi cử hiện nay. Nếu chương trình giảng dạy và cách dạy không quá nhiều nội dung, không quá “xa” với lứa tuổi thì học sinh có thể “vừa học vừa chơi”, có thể “học mà chơi, chơi mà học” thì giờ học sẽ nhẹ nhàng hơn, dễ tiếp thu hơn. Nếu đề kiểm tra, đề thi không chú trọng việc học thuộc lòng mà yêu cầu người học hiểu, vận dụng thì chắc học sinh không phải ê a học thuộc từng dòng, từng chữ như một cái máy mà lỡ quên một vài chữ thì không nhớ cả bài. Nếu các phương thức đánh giá không chỉ dựa vào kết quả kiểm tra, kết quả thi cử mà còn dựa vào nhiều hình thức khác thì hẳn các kỳ thi không còn nặng nề, gay cấn, áp lực như hiện nay. Và nếu tất cả những điều đó thay đổi thì sẽ chẳng mấy học sinh phải (không thể không đi học thêm!) đi học thêm, cha mẹ các em cũng chẳng phải “chạy sô” từ nhà thầy giáo này chở con sang nhà cô giáo kia để kịp buổi học!
3. Bộ GD-ĐT đang tiến hành cải cách giáo dục một cách triệt để và toàn diện. Nhưng có lẽ phải mất nhiều năm nữa mới thực sự “chuyển”, nếu sự cải cách đó được thực hiện quyết liệt và liên tục, bởi cần phải tính toán lại chương trình học, xây dựng sách giáo khoa mới, đào tạo giáo viên thế hệ mới, chuẩn bị phương tiện… Ngay trước mắt, để khắc phục tình trạng dạy thêm và học thêm, có thể tiến hành ở khâu ra đề thi, kiểm tra và phương pháp đánh giá. Chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến: Thứ nhất, hạn chế dần các đề thi, kiểm tra theo hướng học thuộc lòng. Yêu cầu cho học sinh nên là “hiểu”, sau đó mới là nhớ, chứ không như hiện nay chỉ có “nhớ”, còn “hiểu” được bao nhiêu thì không được xem là quan trọng. Chẳng hạn, nói về chí công vô tư (Giáo dục công dân lớp 9), có thể hỏi về cách xử sự của học sinh trong cuộc sống để đảm bảo chí công vô tư, thay vì hỏi lại những câu thuộc lòng… Thứ hai, tăng cường các đề “mở”, là những đề gợi sự suy nghĩ, sáng tạo, thay vì chỉ việc trả lời lại những điều đã học. Với các môn xã hội, điều này rất cần thiết, còn với các môn tự nhiên nên hướng cho học sinh thực nghiệm. Chẳng hạn, với môn văn, nên ra các đề gợi ý cho học sinh suy nghĩ, cách giải quyết của bản thân trước một hiện tượng thực tế; với môn hóa, vật lý…, nên thực nghiệm các tình huống cụ thể. Thứ ba, cải tiến việc đánh giá, bằng nhiều hình thức, không chỉ qua các kỳ thi, các bài kiểm tra. Có thể tạo điều kiện cho học sinh tích lũy điểm qua các hoạt động trên lớp như kỹ năng phát biểu, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng làm việc nhóm…, cùng với điểm kiểm tra, thi… Như vậy, việc đánh giá sẽ toàn diện hơn, thực chất hơn.
Với sự cải tiến này, phần “ngọn” của giáo dục là dạy thêm và học thêm sẽ được khắc phục, đồng thời góp phần giải quyết cả phần “gốc” là mục tiêu và chất lượng đào tạo. Nên cần phải được chú trọng đúng mức!
Nguyễn Minh Tâm
|
Giáo viên cần thay đổi về tư duy
Ngành giáo dục cần tập huấn cho giáo viên làm quen dần với sự cải tiến triệt để và toàn diện. Bởi giáo viên là người trực tiếp đánh giá, ra đề kiểm tra, định hướng phương pháp học tập cho học sinh nên cần có sự thay đổi về tư duy. Điều này cũng đòi hỏi giáo viên phải chủ động, năng động và sáng tạo hơn, thay vì lệ thuộc quá nhiều vào giáo án, vào sách hướng dẫn, sách giáo khoa…
|


Bình luận (0)