|
Học sinh THCS trong tiết thực hành môn vật lý. Ảnh: N.Trinh
|
Người thầy đứng lớp dù nói theo sách, giảng theo giáo án nhưng không có nghĩa là không bao giờ nói sai. Bởi các ý đã được chuẩn bị sẵn vẫn có thể không đúng; khi nói lại điều đó vẫn có thể nói sai; huống hồ người thầy còn nói những điều không có sẵn bằng văn bản, nói kiểu “ứng khẩu”.
Đã vậy, điều mình đọc, mình nhớ hoàn toàn có thể không chính xác nên nói sai là “tai nạn” dễ hiểu và hoàn toàn chấp nhận được. Do đó, yêu cầu người thầy tuyệt đối đúng là điều không tưởng. Vấn đề là người thầy nên hiểu điều đó bằng một tinh thần cầu thị, có trách nhiệm để tiếp thu, sửa chữa và khắc phục.
Đã nhìn nhận người thầy (nói chung) có thể mắc sai sót, sai lầm, ta cũng nên nhẹ nhàng với điều đó. Vấn đề nằm ở chỗ cái sai đó là sai nào, tức là người thầy được sai đến đâu. Tôi nghĩ rằng sai về kiến thức là “lỗi” thường gặp. Tôi có mấy “kỷ niệm” mà đã hơn 20 năm vẫn còn nhớ rõ. Hồi học cấp II, một thầy giáo khi giảng Tuổi vừa đôi tám, nghề chuyên học hành trong Lục Vân Tiên, thì thầy cho rằng “Lục Vân Tiên chăm học nên hăm tám tuổi vẫn chưa lập gia đình”. Thật là một lỗi đáng tiếc, bởi vì “đôi tám” là “mười sáu” (cũng như “đôi chín” là “mười tám”, “đôi mươi” là “hai mươi”) chứ không phải “hai mươi tám”, tức là sai về ngữ nghĩa và sai cả về câu chuyện (một người như Lục Vân Tiên đến hăm tám tuổi còn học hành tức là có thể sức học còn kém chưa đi thi hoặc đã đi thi nhưng chưa đỗ, thì đâu còn giỏi giang nữa!). Một thầy giáo khác giảng “cầu kiều” trong “Muốn sang thì bắc cầu kiều…” nghĩa là “cây cầu đẹp”. Từ đó đến nay tôi cứ phân vân, “kiều” có nghĩa là “cầu”, nói “cầu kiều” là một dạng “lặp lại” một từ thuần Việt với một từ Hán Việt (cũng như “tu sửa”…), liệu có phải là “đẹp” dựa theo sắc đẹp của nàng Kiều trong Truyện Kiều? Nếu “kiều” là đẹp thì làm sao chứng minh là câu ca dao đó ra đời sau Truyện Kiều?…
Lắm khi học sinh cho rằng lời thầy là “khuôn vàng thước ngọc” nên ghi ghép và học theo răm rắp (với cách dạy một chiều, tuyệt đại đa số học sinh gần như không có tư duy phản biện); trong khi bản thân người thầy lại chủ quan, thiếu kiểm tra nên có thể nhầm lẫn hoặc đinh ninh một cái sai là đúng, thành ra cứ rao giảng, hết năm này qua năm khác. Điều đó rất không nên. Bởi vậy, người thầy phải không ngừng tìm tòi, học tập, không chỉ để làm rõ các nghi vấn mình chưa hiểu thấu đáo, để hiểu những kiến thức mới mà còn để bắt kịp với sự phát triển của cuộc sống.
Tuy vậy, hiện nay với việc sử dụng công cụ tìm kiếm Google hay các trang khác trên internet thì ngay cả các “ông thầy” này vẫn có thể có sai lầm hoặc thiên kiến; do đó, người thầy nếu thiếu đối chiếu, kiểm tra thì vẫn có thể lặp lại cái sai của người khác.
Dù sao lỗi về kiến thức cũng còn “tạm chấp nhận”. Nếu lỗi về nhận định, về tư tưởng, về quan điểm… e rằng có thể trở thành một việc vô tình “đầu độc” học sinh. Chẳng hạn, khi giảng về lịch sử phong kiến, không thể chỉ nhìn ở khía cạnh tiêu cực: Chế độ phong kiến thối nát, vua quan bóc lột nông dân đến tận xương tủy…, rõ ràng là phủ định công lao của cha ông ở thời kỳ phong kiến, mà còn nên nói đến việc dù ở thời đại nào, chế độ nào, truyền thống của ông cha ta là không những đã đánh giặc giữ nước mà còn xây dựng, sáng tạo nhiều công trình có ý nghĩa văn hóa, lịch sử cho dân tộc, đã gìn giữ bản sắc văn hóa qua hàng ngàn năm. Trong trường hợp này, người thầy phải có sự rạch ròi: Nêu mặt được và chưa được, cái nào tốt thì ca ngợi, cái nào chưa tốt thì phải nói rõ để học sinh hiểu và nhìn thấy bài học lịch sử.
Với những nhận xét mang tính định hình nhân cách, người thầy lại càng phải cẩn thận và cân nhắc. Tốt hơn hết là nêu ra hai mặt của vấn đề để học sinh hiểu đầy đủ, đừng “mặc định”, “áp đặt”. Chẳng hạn, việc một học sinh hi sinh khi cứu người, phải nêu rõ mặt nên và mặt không nên: Nên quan tâm, giúp đỡ người khác, nhất là trong tình huống nguy cấp, việc xả thân là đáng quý, đáng trân trọng, nhưng không nên liều mạng, không nên giúp khi bản thân không đủ sức, không đủ điều kiện thì chẳng những không giúp được người khác mà còn nguy hiểm bản thân… Tức là người thầy nên gợi ý, định hướng, nêu ra các phương án để lựa chọn, thay vì chỉ tán dương hoặc phê phán một chiều.
Người thầy dĩ nhiên không tránh được sai lầm. Nhưng phải tránh những cái sai do chủ quan, do thiếu cẩn trọng, do thành kiến… Vì vậy, người thầy phải cầu thị học hỏi, cả với học sinh của mình. Nếu đã mắc sai lầm thì nên mạnh dạn nhìn nhận, đừng “cho qua” khi bị phát hiện hoặc “lờ đi” khi không ai nhận ra, bởi nhận ra cái sai, cái nhược của mình là một bước phát triển của nhận thức. Người thầy có mạnh dạn nhận ra cái sai của mình thì mới quyết tâm sửa chữa, mới thuyết phục và làm gương cho học trò. Do đó, sai sót khi đứng trên bục giảng không đáng trách bằng đã sai rồi mà không nhìn nhận, cố bảo vệ cái sai đó cho bằng được, theo lối áp đặt, cưỡng ép hoặc dùng uy thế của mình buộc người phát hiện không được vạch ra cái sai đó. Nhìn ở góc độ này, người thầy ngoài sự cầu thị còn phải khiêm tốn, bao dung, độ lượng và tuyệt đối tránh chủ quan, thiên kiến!
Trúc Giang
| Sai sót khi đứng trên bục giảng không đáng trách bằng đã sai rồi mà không nhìn nhận, cố bảo vệ cái sai đó cho bằng được, theo lối áp đặt, cưỡng ép hoặc dùng uy thế của mình buộc người phát hiện không được vạch ra cái sai đó. |


Bình luận (0)