|
Để HS có bản lĩnh, sáng tạo thì điều quan trọng là GV phải có phương pháp dạy học. Ảnh: Anh Khôi |
Trong nhiều nguyên nhân khiến cho học sinh (HS) ngày nay thụ động, thiếu bản lĩnh, thiếu kỹ năng…, có nguyên nhân từ phương pháp dạy học thiếu tích cực của giáo viên (GV).
Khơi gợi đam mê, bản lĩnh, sáng tạo
Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là truyền đạt tri thức. Nhưng nhiều khi, trách nhiệm của người dạy học là khơi gợi sự tìm tòi, đánh thức sự đam mê, sáng tạo, vực dậy nơi người học một bản lĩnh, một sự tự tin trong học tập… lại còn quan trọng hơn.
Trong Quà tặng cuộc sống có câu chuyện rất ý nghĩa, xin được tóm tắt ngắn gọn như sau: Thầy giáo dạy toán Peter cho HS làm bài kiểm tra 15 phút đầu năm học. Thầy cho 3 đề với ba mức điểm khác nhau. Đề 1, với câu hỏi vừa, dễ và khó; thang điểm 10. Đề 2, gồm các câu hỏi tương đối dễ; thang điểm 8. Và đề 3 chỉ toàn câu hỏi dễ với thang điểm 6. Phần lớn HS trong lớp chọn đề 2 để làm, không ai chọn đề 1. Khi trả bài, cả lớp ngạc nhiên trước cách chấm khác lạ của thầy: Bất kể đúng hay sai, HS chọn đề nào để làm thì được số điểm tương ứng với thang điểm của đề bài ấy. Thầy Peter giải thích: “Với bài kiểm tra này, thầy chỉ muốn thử thách sự tự tin của lớp. Ai trong số các em cũng ước mơ đạt điểm 10, nhưng ít ai dám vượt qua thử thách để biến ước mơ ấy thành hiện thực!”.
Câu chuyện làm thích thú mọi người vì thầy dạy toán đã cho học trò của mình bài học về sự tự tin trong học tập. Nó rất ý nghĩa cho thực tế dạy và học của ta hiện nay, khi mà phần lớn HS xác định học chỉ để thi, học vì điểm… Vì thế đánh mất mục đích cao nhất của việc học mà UNESCO đã đề xướng: “Học để tự khẳng định mình”!
Khó khăn về phương pháp!
Làm sao vực dậy tinh thần ấy? Điều quan trọng là phương pháp của GV. Có thể nói, cùng với chủ trương đổi mới toàn diện giáo dục, nhiều phương pháp dạy học tích cực đã được đưa ra áp dụng ở trường phổ thông trong thời gian gần đây, như: Bàn tay nặn bột, dạy học theo dự án, theo chủ đề (chuyên đề), dạy liên môn, tích hợp… Thế nhưng nhìn vào thực tế, các phương pháp ấy chỉ phù hợp cho rất ít trường phổ thông. Còn lại chưa thật sự khả dụng, thiếu sự thích hợp đồng bộ khi mà sĩ số lớp quá đông; đề kiểm tra, thi cử chưa thay đổi; không chỉ chương trình học nặng mà GV còn bị ràng buộc bởi kế hoạch giảng dạy, phân phối chương trình, với việc thanh – kiểm tra… Chính vì thế, việc áp dụng các phương pháp ấy vào thực tế giảng dạy gặp rất nhiều khó khăn. Theo định hướng của ngành giáo dục, nó chỉ thực sự được “cởi trói” từ năm 2018 – khi có sự thay đổi đồng bộ chương trình và sách giáo khoa.
Xây dựng phương pháp dạy học tích cực
Trao đổi kinh nghiệm với GV, ông Phạm Ngọc Tiến (Phó trưởng phòng Giáo dục trung học, Sở GD-ĐT TP.HCM) cho rằng, trước thực tế dạy và học hiện nay, GV cần xây dựng một phương pháp tích cực. Mục tiêu là chuyển từ trọng tâm trang bị tri thức sang rèn luyện năng lực vận dụng thực tiễn cho HS. Chuyển từ dạy HS học sang dạy HS cách học, cách giải quyết những vấn đề trong cuộc sống. Theo ông Tiến, để xây dựng phương pháp tích cực này, cần thiết kế bài dạy theo chuỗi hoạt động gồm 5 bước: Tình huống xuất phát – cách giải quyết – tổ chức thực hiện – kết quả – và rút kinh nghiệm.
Về tính khả dụng? (Vì thực tế nhiều trường có HS học rất yếu, lại rất thụ động). Ông Tiến cho rằng do thói quen dạy học thụ động lâu nay, nếu GV biết giao việc cho HS, thì dù là HS yếu cũng có thể gợi được không khí học tập chủ động. Theo đó có 4 mức độ khác nhau từ thấp đến cao để có thể áp dụng cho nhiều dạng HS. Mức 1: GV đặt vấn đề – GV nêu cách giải quyết – HS giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của GV – GV đánh giá kết quả của HS. Mức 2: GV đặt vấn đề – GV gợi ý cho HS nêu cách giải quyết – HS thực hiện có sự giúp đỡ của GV khi cần thiết – GV và HS cùng đánh giá kết quả làm việc. Mức 3: GV cung cấp thông tin tạo tình huống – HS phát hiện, xác định vấn đề nảy sinh – HS tự đề xuất và lựa chọn giải pháp – HS giải quyết vấn đề – GV và HS cùng đánh giá. Mức 4: HS tự phát hiện vấn đề trong cuộc sống – HS tự tìm và lựa chọn giải pháp – HS giải quyết vấn đề – HS tự đánh giá kết quả, có ý kiến bổ sung của GV. Nếu đạt được ở mức thứ 4, thì đó là cách dạy và học lý tưởng!
Trần Ngọc Tuấn (GV THPT tại TP.HCM)
|
Đánh thức bản lĩnh người học ở một số môn TOÁN: Đặt HS vào tình huống để “nảy sinh phương pháp” Trao đổi với nhiều GV môn toán, họ đều cho rằng muốn vực dậy đam mê, sáng tạo, bản lĩnh nơi HS thì trước hết cần xác định hai yếu tố chính (đặc trưng của môn toán) là tư duy và kỹ năng. Phân loại đối tượng HS: HS khá, giỏi thì chú trọng tư duy, còn đối với HS trung bình và yếu thì cần coi trọng kỹ năng. Tư duy giúp người học có những sáng tạo đột phá, còn kỹ năng giúp cho các em có thể đáp ứng những yêu cầu cơ bản. Theo đó, để tạo sự thích thú, kích thích đam mê toán học cho HS, cần đặt các em vào tình huống để “nảy sinh phương pháp”. Nghĩa là trên cơ sở của bài học lý thuyết (có thể cho chuẩn bị trước ở nhà), GV đặt ra vấn đề có bao nhiêu cách giải, HS tự tìm ra cách giải riêng cho mình. GV tổng hợp, đánh giá và đưa ra cách giải riêng của mình cho lớp, từ đó rút ra kết luận về phương pháp giải cho bài học. Như thế HS không phải tiếp nhận bài học theo cách thụ động, một chiều, áp đặt từ GV. Mà GV đóng vai trò là người hướng dẫn, còn HS là trung tâm. HÓA: Gắn với ứng dụng thực tế để khơi dậy đam mê Hầu hết GV dạy hóa học cho rằng môn này có tính ứng dụng thực tế nhiều nhất, nhưng không phải HS nào cũng ý thức điều đó để học tốt. Theo họ, tạo được hứng thú nhiều nhất cho HS của bộ môn này là những giờ thí nghiệm, những liên hệ thực tế của từng bài học vào cuộc sống. Để khơi gợi đam mê học hóa cần kéo môn hóa về gần với cuộc sống hơn. Như tổ chức các cuộc thi hóa học vui; vận dụng bài học vào trong các trò giải trí (ảo thuật)… Hơn hết, trong trường học cần có các bài tập ứng dụng yêu cầu tổ chức sản xuất nhỏ những sản phẩm có giá trị sử dụng hàng ngày. Ví dụ khi học bài Este – chất béo, thì có thể yêu cầu HS tự “chế tạo” xà phòng từ mỡ động vật, mùi hương từ vỏ bưởi… TIẾNG ANH: Tự tin để có kỹ năng giao tiếp tốt Nhiều GV tiếng Anh thừa nhận rằng điểm yếu của HS hiện nay là yếu về kỹ năng giao tiếp. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là chương trình học nặng, kiến thức bài học nhiều, lượng từ vựng đồ sộ… Trong khi đó chương trình ít chú trọng kỹ năng giao tiếp, việc kiểm tra đánh giá cũng bỏ ngỏ cho nên HS rụt rè, thụ động, ít nói và sợ nói sai… Nếu HS nào học giao tiếp từ bé thì có thể khắc phục điểm yếu này. Chỉ cần so sánh GV người Việt với GV người nước ngoài trong phương pháp đã thấy sự khác nhau: HS thích học với GV nước ngoài vì cách phát âm, giọng nói và đặc biệt là cách pha trò. Chỉ cần nhìn cái nhún vai, lắc đầu, cái liếc mắt… là có thể thích thú tập trung. Cách truyền đạt như thế dễ kéo HS gần với người dạy và làm cho họ thấy gần gũi, tự tin hơn. Qua đó giúp cho HS dễ dàng cởi mở để có kỹ năng giao tiếp tốt hơn. |


Bình luận (0)