|
Theo đánh giá, phần lớn sinh viên sư phạm đều yếu kỹ năng thực hành (ảnh minh họa). Ảnh: Anh Khôi
|
Thời gian gần đây, cùng với sự đổi mới giáo dục toàn diện, môn ngữ văn trong trường phổ thông cũng đã có nhiều sự đổi mới đáng ghi nhận. Đó là đổi mới phương pháp giảng dạy từ kiểm tra, đánh giá đến đổi mới đề thi theo dạng mở; từ đó học sinh (HS) chủ động hơn trong việc bày tỏ quan điểm, cách nhìn nhận cuộc sống, tư duy sáng tạo…
Tuy nhiên, theo tôi vẫn còn một số vấn đề cần có sự đổi mới đúng nghĩa bắt đầu từ gốc cho tới ngọn.
Thứ nhất, muốn đổi mới nội dung giảng dạy thì phải bắt đầu từ đổi mới trong đào tạo nguồn lực con người. Nếu như chúng ta chỉ đơn thuần đổi mới nội dung giảng dạy mà không bắt đầu từ nguồn lực con người, cụ thể là quá trình đào tạo ở Trường ĐH Sư phạm thì việc đổi mới cũng chỉ chắp vá, thậm chí là giậm chân tại chỗ. Thiết nghĩ, đồng thời với đổi mới nội dung giảng dạy, cần phải có nhiều hơn những lớp tập huấn, bồi dưỡng cho các giáo viên (GV) đang giảng dạy trong nhà trường. Đồng thời, ngay trong quá trình đào tạo ở Trường ĐH Sư phạm, cần có sự thay đổi trong phương pháp giảng dạy để trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng đáp ứng nhu cầu thực tế đổi mới toàn diện cho thế hệ GV kế tiếp.
Có một thực tế là hiện nay, phần lớn sinh viên sư phạm rất yếu kỹ năng thực hành, lúng túng trong phương pháp giảng dạy. Các giáo sinh về trường thực tập thì người hướng dẫn hầu như phải hướng dẫn lại phương pháp, còn khi về tiếp nhận công tác thì suốt cả năm đầu tiên đó gần như phải bám sát để hỗ trợ về kinh nghiệm, kỹ năng.
| Đến thời điểm hiện tại, GV chỉ mới nghe đổi mới trên các phương tiện thông tin đại chúng, chứ cụ thể đổi mới cái gì và đổi mới như thế nào thì vẫn chưa có một văn bản quy chuẩn nào. |
Thứ hai là về nội dung sách giáo khoa. Thực tế những năm gần đây, dù có tiếng là đổi mới dạy học môn ngữ văn nhưng GV vẫn phải đi theo một nội dung chuẩn cũ. Khối lượng trong nội dung đó khá nặng nên thời gian dành cho rèn luyện kỹ năng gần như còn thiếu. Bên cạnh đó, việc dạy học văn học vẫn nặng về nội dung tác giả, tác phẩm, lịch sử văn học; phần đọc hiểu chủ yếu tập trung vào cấu trúc ngôn ngữ. (Chương trình quy định chi tiết nội dung từng tác giả và tác phẩm). Như vậy, GV vẫn tiếp tục phải bám sát các nội dung chuẩn sách giáo khoa như quy định của Bộ GD-ĐT, hướng HS đến các vấn đề, chuyên đề. Ví dụ như hình tượng người lính trong bài Tây Tiến của Quang Dũng, hay tính dân tộc trong tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu… Để vừa bám nội dung chuẩn, vừa rèn luyện kỹ năng cho HS nhằm phát huy tính sáng tạo, kỹ năng đọc hiểu, cách cảm nhận; đặc biệt là hạn chế tối đa kiểu học thuộc lòng, đọc – chép GV gặp nhiều khó khăn vì khối lượng thời gian eo hẹp. Tất nhiên, bất kì sự đổi mới nào, với bất cứ môn học nào, bước đầu cũng đem lại không ít khó khăn cho cả GV và HS. Do không có thời gian để tăng tiết ở môn ngữ văn nên GV “chữa cháy” bằng cách dành một tiết tự chọn/tuần để rèn kỹ năng cho HS, giải đề bám sát theo chương trình chuẩn.
Còn nhớ, năm trước chúng ta vừa thực hiện đổi mới vừa “chạy” theo chương trình để giúp HS nắm vững kiến thức ôn thi nên rất cập rập. Năm nay, khái niệm đổi mới không còn quá xa lạ đối với HS nữa. Mặt khác, khi Bộ GD-ĐT đã quyết định tổ chức một kì thi quốc gia nên các em có phần chăm học hơn để đầu tư cho kì thi. Đó là tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, GV chỉ mới nghe đổi mới trên các phương tiện thông tin đại chúng, chứ cụ thể đổi mới cái gì và đổi mới như thế nào thì vẫn chưa có một văn bản quy chuẩn nào. Chính vì vậy GV vừa lên lớp dạy nhưng mang tâm trạng băn khoăn, không yên tâm, biết đâu… lại đổi thêm lần nữa!
Trần Thị Thu Thủy
(Tổ trưởng bộ môn văn, Trường THPT Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng)
| LTS: Giáo dục TP.HCM ngày 8-10 có đăng bài Đổi mới chương trình ngữ văn: Chưa thoát khỏi phương pháp truyền thống, sau đó tòa soạn đã nhận được bài viết của một giáo viên dạy văn chia sẻ về vấn đề này. Chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc. |


Bình luận (0)