Sự kiện giáo dụcPhóng sự - Ký sự

Đan thuyền thúng – nghề xưa còn lại chút này!

Tạp Chí Giáo Dục

Ông Phan Liêmchậm rãi chuốt từng sợi nan tre
Lâu nay nói đến nghề đan thuyền thúng, nhiều người cứ đinh ninh rằng, chừng nào ngư dân còn ra biển đánh bắt hải sản thì chừng ấy nghề này vẫn sống. Thực tế, cuộc sống đô thị, phố lấn làng, nguyên liệu khan hiếm, nghề đan thuyền thúng một thuở nổi tiếng ở vùng biển Đà Nẵng mai một dần, đến nay vỏn vẹn còn được ba người…
Trụ lại với nghề
Lão ngư Phan Liêm (ở phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng) năm nay đã hơn 70 tuổi, nước da rám màu nắng gió khi có gần 40 năm gắn bó với nghề đan thuyền thúng. Sơn Trà nơi ông sống là một vùng biển bãi ngang thuộc TP.Đà Nẵng. Xưa, rẻo cát chạy dài dưới chân bán đảo Sơn Trà là nơi tập trung của nhiều ngư dân làm nghề đánh bắt hải sản. Trong kí ức của ông, nghề biển là một kho chuyện dài bất tận dường như chưa có điểm dừng. Trong kho tàng kí ức ấy, đời người làm nghề biển, lênh đênh trên biển không thể tách rời chiếc thuyền thúng, cho dù đánh bắt xa hay gần bờ.
Nhắc đến nghề đan thuyền thúng, đôi mắt ông Phan Liêm nhìn xa xăm về phía biển – nơi khi bình minh ló dạng, những người vợ ngồi bệt trên bãi cát đợi thuyền chồng trở về, và khi cách bờ một khoảng cách nào đấy tùy theo mực nước, những chiếc thuyền thúng trở thành phương tiện phụ trợ để chuyển ngư lưới cụ và những mớ mực, cá tươi nguyên lên bờ để đưa ra chợ. “Nghề biển, dù thuyền có công suất lớn hay bé đều cần đến thuyền thúng trong quá trình đánh bắt”, ông Phan Liêm nói.
Bãi biển Thọ Quang nay đã có con đường mang tên vị tướng tài ba của dân tộc – Võ Nguyên Giáp – chạy ngang trước mặt tấp nập khách du lịch. Nhà cửa mọc lên khang trang sau quy hoạch. Phía bãi neo đậu, thuyền công suất vừa và lớn xuất hiện nhiều hơn thay thế cho những chiếc thuyền mong manh thuở đói nghèo. Nhiều người bỏ nghề đan thuyền thúng để tiếp cận với những nghề khác có thu nhập cao hơn. Nhân lực nghề đan theo đó vơi dần. Duy chỉ có cái thế ngồi chẻ tre đan thúng của lão ngư Phan Liêm thì không đổi.
Ông Phan Liêm cho biết, để đan được một chiếc thúng mất khoảng 5 ngày, bán ra thị trường với giá từ 2 đến 2,5 triệu đồng. Trừ chi phí mua nguyên vật liệu, tiền công mỗi ngày thu về khoảng 200 ngàn đồng. “Xưa, các làng chài ven biển này hầu như nhà nào cũng đan. Bây giờ nhu cầu cuộc sống thay đổi, việc kiếm ra đồng tiền có phần dễ hơn, nên không mấy ai còn mặn mà với cái nghề đau lưng, chai sần bàn tay này nữa”, ông Phan Liêm nói. Hỏi ở vào cái tuổi cần nghỉ ngơi sao vẫn cứ miệt mài với nghề?, chậm rãi chuốt từng sợi nan tre, ông trải lòng: “Cuộc sống bây giờ không còn chật vật như xưa nhưng từ đời cha ông mình, nghề luôn song hành để hỗ trợ gia đình. Nghề có từ đời cha ông, đã hàng trăm năm rồi. Chừ bỏ nghề không đành. Vả lại, bao nhiêu người ra biển cũng vẫn cần đến cái thuyền thúng”.
Còn nhiều trăn trở

Sản phẩm đã hoàn thành
Nhiều năm trở lại đây, các loại thuyền thúng nhựa sản xuất theo công nghệ ra đời thay thế dần thuyền tre. Sợ nghề mai một, ông Phan Liêm đã động viên hai người con trai tiếp tục theo nghề. Bấm đốt ngón tay, ông cho biết dọc theo các làng biển Đà Nẵng bây giờ chỉ vỏn vẹn còn có ba người theo nghề đan “cha truyền con nối”, xem như là bằng chứng sống của một cái nghề còn sót lại. Nghề mai một âu cũng là điều dễ hiểu!
Ông Phan Liêm nói: “Lớp trẻ theo những nghề dễ kiếm ra tiền hơn. Người già dần khuất bóng núi”. Phần khác, cuộc sống đô thị hóa, phố lấn làng, những bức tường gạch, bê tông cứ lấn dần những hàng tre. Vì thế, nguồn nguyên liệu để đan lát cứ vơi cạn dần đi. “Muốn có tre để đan, người làm nghề đan ven biển Sơn Trà phải đi hàng chục cây số đến tận huyện Hòa Vang và có khi phải đi xa hơn, sang cả vùng lân cận như Quảng Nam mới tuyển chọn được nguyên liệu cho nghề. Đó là chưa kể các phụ liệu quan trọng khác như phân bò để quét ngoài lớp thúng chống thấm nước cũng trở nên khó tìm mua hơn xưa”, ông Phan Liêm nhìn xa xăm về phía biển như mặc niệm một thời quá vãng, khi mà xóm chài nơi ông ở tấp nập cảnh đan lát ở mỗi nóc nhà.
Để đan được một chiếc thúng mất khoảng 5 ngày, bán ra thị trường với giá từ 2 đến 2,5 triệu đồng. Trừ chi phí mua nguyên vật liệu, tiền công mỗi ngày thu về khoảng 200 ngàn đồng.
Nhu cầu mua thuyền thúng tre đi biển vơi dần đi, cũng giống như sự vơi dần người làm nghề đan của xóm chài này. Rồi tình cờ cách nay vài năm, một đoàn khách du lịch đi ngang qua, thấy những chiếc thúng của ông Phan Liêm, họ bèn có nhã ý muốn mua. Sau sự ngạc nhiên là niềm vui. Thuyền thúng đã có hướng đi mới! Đó là ra nước ngoài làm du lịch. Cứ thế, mỗi năm đôi ba cái hợp đồng với độ dăm ba chục chiếc thúng được đặt. Khách mua đến từ nhiều quốc gia như: Anh, Úc, Philippines, Nhật… Niềm vui của ông Phan Liêm tựa như đốm sáng bật lên giữa mịt mùng đêm tối. Ngồi chuốt nan tre cạnh cha, anh Phan Minh bộc bạch: “Thị trường còn có nhu cầu thì nghề đan thuyền thúng vẫn còn sống. Biển vào mùa sóng gió thì nghề đan là cứu cánh cho gia đình khỏi đứt bữa, dễ chừng đã mấy đời truyền nối của gia đình mình cũng đủ chứng minh điều đó. Chỉ tiếc, người gắn bó với nghề không còn nhiều…”.
Nắng trước hoàng hôn xòa xuống bãi biển xanh biếc. Những chiếc thuyền câu đêm lặng lẽ hướng về phía biển khơi. Chúng tôi để ý thấy những chiếc thúng vẫn được ngư dân đặt trên lòng thuyền để khi chọn được điểm dừng đánh bắt thì sẽ dùng bơi xung quanh thuyền lớn thả câu. Bất chợt chúng tôi trộm nghĩ, mai này khi những người giữ lửa nghề như ông Phan Liêm khuất bóng, nghề đan thuyền thúng gắn bó hàng trăm năm với người dân miệt biển bãi ngang liệu có còn?
Bài, ảnh: Phan Vĩnh Yên
Nghề truyền thống của dân biển
Bây giờ không ai nhớ nghề đan thuyền thúng ở bán đảo Sơn Trà có từ bao giờ. Trong kí ức của ông Phan Liêm, từ thời cha ông đến dựng nghiệp, theo nghề biển thì nghề đan thuyền thúng cũng xuất hiện từ đó. Cứ đến mùa, từ tháng 11 sang đến tháng 2 âm lịch năm sau, nhà nhà lại rủ nhau đi chọn mua tre. Tiếp đó là các công đoạn cưa tre, chẻ tre, vót nan, đan thúng, uốn vành, phơi thúng, quét phân bò, rồi quét dầu rái… để tạo nên độ bền đồng thời chống thấm nước cho thúng.
 

Bình luận (0)