Sự kiện giáo dụcVấn đề - Sự kiện

Mất bao lâu để bằng tiến sĩ nước ngoài được Bộ GD-ĐT công nhận?

Tạp Chí Giáo Dục

Mới đây, trưởng khoa một trường ĐH bị miễn nhiệm do bằng tiến sĩ chưa được Bộ GD-ĐT công nhận. Vậy theo quy định, thời gian Bộ GD-ĐT công nhận một văn bằng nước ngoài là bao lâu?

Chủ tịch hội đồng trường Trường ĐH Văn Lang vừa có quyết định miễn nhiệm chức vụ Trưởng khoa Du lịch đối với tiến sĩ Lê Minh Thành do bằng tiến sĩ chưa được công nhận tại Việt Nam.

Được biết, ông Thành được Trường SMC (Thụy Sĩ) cấp bằng tiến sĩ năm 2017. Ông Thành cho rằng đã làm thủ tục công nhận văn bằng ngay sau đó. Tuy nhiên, đến nay, bằng tiến sĩ nước ngoài của ông Thành vẫn chưa được công nhận.

Bằng tiến sĩ do nước ngoài cấp cần bao lâu để được công nhận ở Việt Nam? - Ảnh 1.

Mẫu công nhận văn bằng do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp tại Thông tư 13 năm 2021 của Bộ GD-ĐT

Trên thực tế, đại diện Cục Quản lý chất lượng Bộ GD-ĐT (cơ quan công nhận văn bằng) cho biết đơn vị này chưa từng nhận được hồ sơ của ông Thành.

Trong Thông tư 13 năm 2021, Bộ GD-ĐT có quy định cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục, thẩm quyền công nhận văn bằng do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp để sử dụng tại Việt Nam.

Theo Thông tư 13, chỉ trong thời hạn 20 ngày làm việc, cơ quan có thẩm quyền công nhận văn bằng có trách nhiệm trả kết quả công nhận văn bằng cho người đề nghị công nhận văn bằng.

Trường hợp cần xác minh thông tin về văn bằng từ cơ sở giáo dục nước ngoài hoặc đơn vị xác thực nước ngoài, thời hạn trả kết quả công nhận văn bằng không vượt quá 45 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ công nhận văn bằng.

Điều kiện để được công nhận văn bằng

Cũng theo Thông tư 13, văn bằng do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp được công nhận khi chương trình giáo dục có thời gian học, nghiên cứu phù hợp với khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam và đáp ứng một trong 2 điều kiện.

Một là chương trình giáo dục được tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục của nước nơi cơ sở giáo dục nước ngoài đặt trụ sở chính kiểm định chất lượng tương ứng với hình thức đào tạo.

Hai là cơ sở giáo dục nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền về giáo dục của nước nơi cơ sở giáo dục đặt trụ sở chính cho phép đào tạo, cấp bằng hoặc đã được tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục của nước nơi cơ sở giáo dục nước ngoài đặt trụ sở chính kiểm định chất lượng.

Ngoài ra, văn bằng được cấp bởi cơ sở giáo dục nước ngoài đang hoạt động tại nước khác nơi cơ sở giáo dục đặt trụ sở chính (bao gồm cả Việt Nam) được công nhận khi cơ sở giáo dục đó được cơ quan có thẩm quyền về giáo dục của hai nước cho phép mở phân hiệu, cho phép đào tạo hoặc phê duyệt việc hợp tác, liên kết đào tạo; thực hiện hoạt động đào tạo theo giấy phép đồng thời đáp ứng 2 điều kiện ở trên.

Đối với văn bằng do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp cho người học theo hình thức đào tạo trực tuyến, đào tạo trực tiếp kết hợp trực tuyến được công nhận khi đáp ứng quy định "chương trình giáo dục được tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục của nước nơi cơ sở giáo dục nước ngoài đặt trụ sở chính kiểm định chất lượng tương ứng với hình thức đào tạo".

Đồng thời, đáp ứng một trong 2 điều kiện: chương trình đào tạo được Bộ GD-ĐT cấp phép đào tạo tại Việt Nam khi người học lưu trú và học tập tại Việt Nam, hoặc chương trình đào tạo được cơ quan có thẩm quyền về giáo dục của nước nơi tổ chức đào tạo cấp phép khi người học lưu trú và học tập tại nước đó.

Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng thuộc Bộ GD-ĐT sẽ công nhận bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ và văn bằng trình độ tương đương.

Trong khi đó, giám đốc sở GD-ĐT công nhận bằng tốt nghiệp THCS, THPT và giấy chứng nhận hoàn thành chương trình giáo dục phổ thông.

Theo Mỹ Quyên/TNO

Bình luận (0)