Nhịp cầu sư phạmChuyện học đường

Lợi ích của việc đọc sách tham khảo

Tạp Chí Giáo Dục

Thầy cô giáo  muốn HS học tập tốt thì phải hướng dẫn các em đọc thêm sách. Ảnh: T.Vy

Hiện nay giáo viên (GV) và học sinh (HS) còn quá thờ ơ với việc đọc thêm sách tham khảo, sách nâng cao… Tiêu chí của một trường tiên tiến, trường chuẩn quốc gia là thư viện phải có “Tủ sách dùng chung”; phòng đọc phải có đầy đủ bàn ghế, hệ thống chiếu sáng… Ở Việt Nam có bao nhiêu trường phổ thông thực hiện nghiêm túc vấn đề này?
Đọc sách là một trong những phương pháp bổ trợ kiến thức tốt nhất, nó chắp cánh thêm cho bài giảng của người thầy, cho bài học của HS. Sách không chỉ có ở trong thư viện, trong hiệu sách mà có cả trên mạng internet. Những HS thành đạt, giành được nhiều giải thưởng trong các kì thi chọn HS giỏi quốc gia, quốc tế hay đạt điểm cao trong các kì thi ĐH đều nói rằng thành quả của họ đạt được một phần nhờ vào việc đọc và giải các bài trong sách.
1. Là một người tâm huyết với nghề, tôi rất băn khoăn với tình hình đọc sách của GV và HS hiện nay. Nhiều người đặt giá sách ở phòng khách để trang trí, “khoe” với mọi người mình là người có học nhưng không biết trong sách đó viết gì. Nhiều em HS sợ thầy cô kiểm tra vở soạn ở nhà, mua sách “Hướng dẫn giải bài tập” về rồi chép vội vàng vào vở bài tập ở nhà trước lúc đến lớp, chứ không phải xem bài mình giải đã đúng với sách hay chưa. Tôi đã từng gặp hàng trăm trường hợp, các em lên bảng làm đúng kết quả nhưng hỏi lại các bước trung gian thì “bó tay”. Nhiều em HS lên bảng kiểm tra bài cũ lại nhìn vào bài viết trong lòng bàn tay hay những dòng chữ nhỏ li ti viết xen kẽ vào giữa các hàng chữ của sách giáo khoa để chép bài giải lên bảng. GV không tinh ý lại cứ tưởng các em đó “làm tắt” chứ thực ra những em đó không hiểu. Nhiều phụ huynh nói: “Tôi không mua sách bài giải cho con, nó làm hư các cháu”. Sách hướng dẫn bài giải không bao giờ làm hư HS, trái lại nó là “người thầy thứ hai” có tác dụng rất tốt cho các em. Khi các em làm không ra mới giở bài giải ra để xem phương pháp. Sách hướng dẫn chỉ ghi gợi ý cách giải chứ không trình bày một mạch thẳng tuột ra từng câu chữ, bởi vậy nó không làm giảm khả năng tư duy của các em. Tác dụng này thay cho câu hỏi gợi mở của người thầy khi HS… bí.
2. Hiện nay, việc ứng dụng CNTT và sử dụng biểu đồ tư duy hỗ trợ cho việc đổi mới phương pháp đã cải thiện được tình trạng “nói nhiều” của người thầy, nhưng nhiều GV đã lạm dụng vấn đề này để “biểu diễn” bài dạy. Việc trình chiếu hoàn hảo về các bước lên màn hình chỉ cung cấp thông tin một chiều thì làm sao phát huy được khả năng tư duy của HS. Ban đầu nghe một số GV trao đổi về điều đó tôi còn nghi ngờ nhưng kiểm chứng lại thấy đúng. Tôi đã từng dự một tiết “Hình học lớp 8” do một GV nữ thao giảng. Bài tập cho biết hai đường tròn cắt nhau mà đường tròn này đi qua tâm của đường tròn kia. Hỏi tứ giác tạo bởi hai tâm và hai điểm giao nhau của hai đường tròn có phải là hình thoi hay không. Một HS xung phong trả lời là hình thoi, GV chiếu đáp án lên màn hình là hình thoi. Tôi hỏi em HS đó: “Em cho biết vì sao nó là hình thoi”. Em chìa cuốn “bảo bối” ra: “Thưa thầy, đáp án của cô là hình thoi mà sách bài giải cũng viết như thế”. Những bài tập trong sách giáo khoa đều có bài giải. Nếu HS không tham khảo một cách tích cực, khoa học thì cách dạy bằng “phương pháp trình chiếu” một chiều như thế chỉ có tác dụng tránh được “bệnh nói nhiều”, chỉ “làm đẹp” bài giảng thôi chứ HS không thu được kết quả gì. 
3. Gần đây HS bậc THCS mua sách bài tập trắc nghiệm về không sử dụng. Nhiều trường cho rằng phương pháp trắc nghiệm, HS chỉ việc trả lời có, không; đúng, sai mà không tập cho các em có kĩ năng làm bài tập tự luận. Trừ các môn như Anh văn (đòi hỏi kiểm tra nhiều về vốn từ) là GV ra đề trắc nghiệm còn các môn khác, bài kiểm tra có thời gian từ một tiết trở lên như bài khảo sát giữa kì, cuối kì, rất hạn chế ra. Thực ra phương pháp dạy trắc nghiệm không phải là “thủ phạm” làm cho các em HS không biết làm bài tự luận. “Thủ phạm” chính là GV chỉ truyền thụ kiến thức một chiều, không biết phối hợp các phương pháp khác. Cái “tội” của GV không chữa bài tập để HS biết vì sao có đáp án đúng, sai; có, không. Hiện nay trong các kì thi ĐH, CĐ có rất nhiều môn áp dụng hoàn toàn bằng trắc nghiệm. Trắc nghiệm là khuynh hướng chung của các nước tiên tiến như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… Đây là phương pháp kiểm tra đánh giá HS một cách khách quan và chính xác, gây được sự hào hứng và thúc đẩy các em học tập tích cực hơn.
Sách bài tập trắc nghiệm gồm bốn dạng cơ bản: Trả lời các câu hỏi, bài tập có nhiều lựa chọn; câu hỏi, bài tập trắc nghiệm đúng sai; các câu hỏi và bài tập dạng ghép đôi (thường dùng mũi tên); các câu hỏi và bài tập trắc nghiệm điền khuyết.
Bốn dạng trên bổ khuyết cho nhau giúp cho HS tự đánh giá kiến thức của mình thông qua đáp án đằng sau sách. Dạy trắc nghiệm, người thầy phải giải thích, chứng minh cho HS hiểu vì sao có đáp án đó. Phải biết hỏi ngược lại HS các kết quả mà các em đã trả lời. Khi các em đọc mà vẫn không hiểu thì người thầy phải giảng cho các em hiểu thật kĩ càng, cặn kẽ.
Ở nông thôn, các phụ huynh hiểu biết phương pháp dạy con còn hạn chế. Họ hoàn toàn giao khoán con mình cho thầy cô. Họ không biết mua sách và hướng dẫn con tham khảo thêm kiến thức trong sách.
Theo tôi, người thầy muốn có HS giỏi thì phải biết hướng dẫn cho các em đọc sách. Ngoài ra, người thầy có thể photo tất cả các tài liệu bồi dưỡng, nâng cao mà họ đang dạy cho học trò cùng nghiên cứu.
Hoàng Minh Đức (Quảng Bình)

Hãy đánh giá bài viết này!

Số điểm trung bình của bài viết (số sao) / 5.

Chưa có ai đánh giá bài viết này! Hãy là người đầu tiên đánh giá

Bạn đã đánh giá bài viết này hữu ích!

Hãy theo dõi chúng tôi trên mạng xã hội

Bình luận (0)