Cơ đồ của Từ Hải có hai con số 5 đáng chú ý. Một con số 5 chỉ không gian, địa giới. Huyện thành đạp đổ 5 tòa cõi Nam. Từ đã xây dựng triều đình, có văn võ, có chuyện chia đôi sơn hà! Trên miền đất rộng lớn ấy, không phải Từ chiếm cứ 1, 2 năm mà 5 năm hàng cứ. Một số 5 chỉ không gian, một số 5 chỉ thời gian, cả hai đều tạo thế không dễ gì có ai dám tranh cường.
Hồ Tôn Hiến xuất hiện. Đáng chú ý là cách giới thiệu Hồ công của cụ Nguyễn. Có quan Tổng đốc trọng thần/ Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài. Nếu không câu nệ số chữ, thanh bằng trắc trong một câu thơ, hai câu trên có thể tóm tắt như sau: Có quan Hồ Tôn Hiến – có Tổng đốc Hồ Tôn Hiến – có trọng thần Hồ Tôn Hiến. Cả ba sự tóm lược ấy đều đủ nghĩa. Nguyễn Du đã lặp ý, nhấn mạnh, đề cao: Quan, tổng đốc, trọng thần. Rõ ràng cụ Nguyễn muốn cho ra một đối trọng với Từ Hải (cũng như Hoạn thư, đối trọng với Thúy Kiều). Sự nhấn mạnh, cách giới thiệu trang trọng còn nằm ở chỗ giới thiệu quan tước trước, sau đấy mới nói tên họ. Mà không chỉ thế, Hồ Tôn Hiến còn được biểu hiện ở ba chi tiết nối tiếp: Một là kinh luân gồm tài, kinh luân là sửa sang, cáng đáng, sắp xếp, giải quyết những việc lớn lao của Nhà nước. Việc đời rối như mớ tơ vò, sợi chỉ dọc (kinh) sợi chỉ ngang cứ rối rắm không biết đâu là đầu đâu là cuối để gỡ. Vào tay Hồ Tôn Hiến, việc đâu sẽ ra đấy: Rõ ràng, minh bạch, trật tự, ngăn nắp! Ông quan tài ba ấy lại được vua ra khỏi cửa thành, quan ngồi trên xe vua đứng dưới đưa tay “đẩy xe” (đúng hơn là vua chỉ đưa tay vào xe, làm đúng nghi lễ) để tỏ lòng tôn trọng vị quan biệt phái, mong việc thành công. Cuối cùng Hồ Tôn Hiến lại vâng lệnh vua, được vua ủy nhiệm đặc biệt (đặc sai). Vua cũng cho quyền vị quan ấy tùy nghi mà đánh giặc (tiện nghi bát tiễn) và đứng ở vị trí thống chỉ huy các vị nguyên soái khác.
Thử đọc lại: Có quan Tổng đốc trọng thần/ Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài/ Đẩy xe vâng chỉ đặc sai/ Tiện nghi bát tiễn, việc ngoài đổng nhung!
Vị quan Tổng đốc trọng thần ấy đã đánh dẹp như thế nào? Trước hết, Nguyễn Du viết: Biết Từ là đấng anh hùng/ Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn. Trong Truyện Kiều, 108 lần Nguyễn Du dùng từ biết. Riêng Hồ Tôn Hiến có hai điều biết quan trọng: Biết rõ Từ Hải (đấng anh hùng, không dễ gì đối địch), biết Thúy Kiều cũng dự phần bàn luận việc quân (cái mầm mống, cái thế tấn công Từ, Hồ cũng đã nhìn thấy). Cho nên: Đóng quân làm chước chiêu an! Chao ôi cái lệnh đóng quân (tức chưa nghênh chiến) và chiêu bài dụ dỗ Từ đầu hàng là một quyết định táo bạo, chính xác. Biết mình, biết người trăm trận trăm thắng!
Nói kỹ càng như vậy để thấy dụng ý, dụng công của đại thi hào Nguyễn Du. Thật khác xa với truyện bên Tàu: Vị quan ấy chỉ là Đốc Phủ. Ra quân là hùng hổ đánh nhau. Đánh nhau thất bại mới tìm kế dụ hàng. Sứ giả sang doanh trại Từ, suýt nữa bị Từ Hải chém đầu. Thua trận, dụ hàng không được, bế tắc, buồn rầu… Một tên đàn em hiến kế dùng Thúy Kiều…
Thử đọc kỹ Kim Vân Kiều Truyện, quan đốc phủ quả kém tài, kém trình độ kinh luân, kém hai chữ biết!
Lê Xuân Lít

Bình luận (0)