|
Học viên Trường TC Nghề Kỹ thuật – công nghệ Hùng Vương trong giờ học thực hành. Ảnh M.T
|
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, có khoảng 37% sinh viên tốt nghiệp trúng tuyển vào các doanh nghiệp (DN) không đáp ứng được yêu cầu của công việc, buộc DN phải mất 1-2 năm đào tạo lại các kỹ năng, nghiệp vụ…
Việc DN luôn than phiền về chương trình đào tạo của các trường nghề chưa hợp lý và thiếu thực tiễn là điều tất yếu. Bởi các tiêu chuẩn của DN đưa ra đa số các trường không đáp ứng được. Vì theo mô hình của các nước tiên tiến, trường nghề phải là đơn vị kiếm tiền công nghiệp, thiết bị hiện đại phải cập nhật, biết quan sát và tìm hiểu thị trường, có đội ngũ giảng viên chuyên nghiệp. Từ đó, các DN thường không mấy mặn mà khi phải liên-kết-cho-có với các trường nghề không chịu thay đổi để tốt hơn.
Trường nghề phải chủ động đào tạo kỹ năng mềm
Theo ông Phùng Quang Huy, Giám đốc Văn phòng giới thiệu sử dụng lao động (Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam – VCCI), việc các DN tự đào tạo chỉ là biện pháp chữa cháy để ổn định nguồn lao động. Vài năm gần đây, các DN chỉ thật sự đồng ý liên kết đào tạo với các trường nghề sau một thời gian tìm hiểu, kiểm định chất lượng đào tạo tại cơ sở. “Khi tuyển dụng, người sử dụng lao động sẽ quan tâm tới hai vấn đề của người lao động. Thứ nhất là kiến thức chuyên môn (kỹ năng nghề); thứ hai là kỹ năng làm người lao động (kỹ năng mềm). Nếu lao động thiếu kỹ năng nghề thì các DN hoàn toàn có thể đào tạo lại, nhưng nếu thiếu kỹ năng mềm thì không DN nào có đủ thời gian để đào tạo mới. Các trường nghề chỉ bám theo khung lý thuyết mà không chú ý tới vấn đề trang bị cho học viên kỹ năng mềm. Ngay từ năm cuối phổ thông, những kỹ năng giao tiếp, quản lý thời gian đã phải được đào tạo vì đó chính là nền tảng để quyết định 50% thành công của công việc sau này. Ngoài ra, lao động nước ta còn thiếu kỹ năng hội nhập nên tính cạnh tranh còn yếu. Cho nên các trường nghề hoặc các cơ sở dạy nghề phải chủ động đào tạo trước để quá trình chuyển giao nhân lực giữa trường nghề và DN được thuận lợi”, ông Phùng Quang Huy cho biết. Chính nguyên nhân kỹ năng mềm của người lao động còn yếu khiến các DN lo lắng những lao động này hay nhảy việc nên không mặn mà đào tạo sâu.
Trong quá trình liên kết đào tạo theo đơn đặt hàng, giữa DN và các trường nghề còn gặp phải rào cản, đó là thiếu sự tin tưởng nên tính chuyên nghiệp trong việc liên kết giữa hai phía còn thấp. Nhà trường thì tỏ ra lo lắng về sự hỗ trợ chỗ thực tập, kinh phí từ DN trong suốt quá trình học của học viên. Còn DN thì chưa tin tưởng chất lượng đào tạo tại các trường (chất lượng giảng dạy, thiết bị thực hành, đội ngũ giáo viên có chuyên môn giỏi…). Bên cạnh đó, chương trình đào tạo ở các trường nghề còn khoảng cách rất xa với DN, chỉ tập trung vào chương trình khung của Bộ GD-ĐT mà quên đi DN có nhu cầu như thế nào. Hơn nữa, việc hiện nay chưa có hệ thống ngân hàng dữ liệu việc làm cũng là rào cản để hai phía có cơ hội “gặp nhau”, từ đó việc xúc tiến hợp tác còn yếu. “Các tác giả viết sách về dạy nghề đều mang tính hàn lâm, thiếu thực tế, thông tin đưa ra lạc hậu thiếu kiểm chứng. Cho nên chương trình khung đào tạo dạy nghề của Bộ GĐ-ĐT chưa đưa ra cái chung, mang tính định hướng; còn đặc thù các ngành nên do hiệp hội ngành nghề, các chủ sử dụng lao động cùng ngồi lại để thiết kế chương trình đào tạo sẽ phù hợp hơn với nhu cầu từng nhóm đối tượng học nghề”, ông Phùng Quang Huy cho biết thêm.
Cần nhiều hơn những công ty tư vấn
Đào tạo nghề theo đơn đặt hàng được cho là con đường ngắn nhất mà rất hiệu quả trong đào tạo, sử dụng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hạn chế tối đa những lãng phí khổng lồ của việc đào tạo nghề trong 5 năm tới. Ở Việt Nam hiện chỉ có một vài tổ chức như Hội đồng Anh, BMG, Toyota… liên kết với các trường nghề thành công. Tuy nhiên, việc liên kết giữa trường nghề với DN dù đạt được một số thành công nhưng số lượng còn quá ít, quy mô nhỏ thiếu sức lan tỏa nên khó khăn trong việc nhân rộng mô hình. Đó cũng là nguyên nhân khiến “giấc mơ” biến dạy nghề trở thành mũi nhọn xây dựng nguồn nhân lực tiên tiến cho Việt Nam, cạnh tranh với nhân lực nước ngoài, hội nhập ASEAN và quốc tế sau 2015 sẽ bị thu hẹp.
Tại châu Âu, chính phủ các nước sẵn sàng bỏ tiền để các phòng thương mại chuyên trách tư vấn dạy và học nghề trên cả nước. Điển hình là mô hình Phòng thương mại Paris (Pháp), hằng năm tư vấn thành công cho gần 1 triệu lao động và là cầu nối quan trọng giữa trường nghề với DN. Ở Việt Nam chủ yếu là các công ty tư vấn nhỏ, hoạt động riêng rẽ để giới thiệu DN chứ không phải là đơn vị trung gian để giúp DN và các trường nghề có hướng đi chung. Hơn nữa, văn phòng tư vấn nghề ở nước ta còn mang tính nghĩa vụ, hình thức, không đảm bảo chất lượng. Theo kiến nghị của ông Phùng Quang Huy, nên hình thành việc tư vấn có thu phí tương xứng. Làm như thế, các công ty mới có đủ ngân sách duy trì hoạt động, giảm tải chi phí xã hội.
Việc hình thành các công ty tư vấn được đầu tư chuyên nghiệp là vấn đề cấp thiết để có được nguồn nhân lực cạnh tranh, hội nhập cho Việt Nam. Chính những công ty tư vấn sẽ là đòn bẩy giúp cho quá trình liên kết đào tạo theo đơn đặt hàng được thuận lợi. Tại các công ty tư vấn, DN sẽ hiểu được định hướng đào tạo ở các trường nghề, từ đó góp ý xây dựng chương trình đào tạo, hỗ trợ nơi thực tập, tiếp nhận người học sau khi tốt nghiệp. Học viên tại các trường nghề cũng tâm huyết hơn khi biết được môi trường làm việc sau tốt nghiệp. Ông Phùng Quang Huy nhấn mạnh: “Khi học nghề xong, có được một môi trường làm việc ổn định, thu nhập cao sẽ giúp tăng số lượng học viên học nghề hằng năm, giảm tối đa những lựa chọn học ở bậc cao hơn nhưng không đủ năng lực hoặc học ra lại thất nghiệp”.
Bài, ảnh: LỘC SÂM
| Trong quá trình liên kết đào tạo theo đơn đặt hàng, giữa DN và các trường nghề còn gặp phải rào cản, đó là thiếu sự tin tưởng nên tính chuyên nghiệp trong việc liên kết giữa hai phía còn thấp. |


Bình luận (0)