![]() |
Bài viết này xin giới thiệu “Mô hình hướng dẫn người học tự học (SDL – self-directed learning) và việc vận dụng mô hình này tại Trường CĐ Công nghệ Thủ Đức nhằm đổi mới phương pháp dạy học (PPDH), nâng cao năng lực tự học ở sinh viên (SV) bậc CĐ…
Việc cải tiến PPDH theo hướng tích cực hóa người học để nâng cao chất lượng giảng dạy, năng lực học tập cũng như năng lực tự học của SV là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng đào tạo. Tự học có ý nghĩa quan trọng, quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách SV. Nếu không có tự học thì SV không thể hoàn thành nhiệm vụ học tập theo phương châm “biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo”…
Mô hình hướng dẫn người học tự học (SDL)
Đây là mô hình trong đó người học tự tổ chức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững tri thức, hình thành kỹ năng nghề nghiệp cần thiết dưới sự hướng dẫn, tổ chức, điều khiển và điều chỉnh của giáo viên (GV) để phát triển và hoàn thiện nhân cách.
Mô hình SDL gồm 4 bước: Bước 1 – Định hướng: SV tham gia kiểm tra trình độ đầu vào; GV đánh giá khả năng của SV: Điểm mạnh, điểm yếu; GV xác định điểm khởi đầu của SV; GV hướng dẫn cách tự học và cách tự kiểm tra, điều chỉnh việc học. Bước 2 – Tự học: SV tự học cũng như phát triển các kỹ năng học tập độc lập; GV cố vấn học tập, hỗ trợ SV trong suốt quá trình học tập; SV tự kiểm tra, đánh giá mức độ lĩnh hội tri thức của bản thân. Bước 3 – Đánh giá:GV đánh giá mức độ lĩnh hội tri thức của SV. Bước 4 – Phản hồi:GV nhận xét kết quả học tập của SV, định hướng nội dung học tập mới.
Hoạt động của giảng viên: Trong mô hình giảng dạy SDL, GV là người cố vấn, giao nhiệm vụ, dẫn dắt người học tự học trên lớp (suy nghĩ để thu nhận thông tin), đồng thời hướng dẫn người học tự học, tự nghiên cứu ở nhà khi không có thầy. Trong quá trình hướng dẫn người học học tập trên lớp, hoạt động tổ chức, điều khiển của người GV đối với hoạt động nhận thức – học tập của người học thể hiện ở chỗ: Đề ra mục đích, yêu cầu nhận thức – học tập tương ứng của người học. Kích thích tính tự giác, tính tích cực, độc lập, chủ động sáng tạo của người học bằng cách tạo nên nhu cầu, động cơ, hứng thú, khêu gợi tính tò mò, ham hiểu biết của người học… Theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học, qua đó có những điều chỉnh sửa chữa kịp thời các thiếu sót, sai lầm của họ cũng như trong công tác giảng dạy của mình. Ngoài ra còn hướng dẫn cách nghe giảng và ghi bài trên lớp…
Hoạt động của SV: Trong quá trình tự học, có thể có GV hướng dẫn hoặc không, người học phải luôn tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động học tập của mình nhằm thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân; qua đó người học thể hiện mình, biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình. Quá trình tự học của người học có thể diễn ra dưới tác động trực tiếp của GV như diễn ra trong lớp học hoặc dưới sự tác động gián tiếp của GV như việc tự học, tự nghiên cứu của người học.
Mô hình SDL trong thực tế
|
|
Để tìm hiểu thực trạng dạy học môn Anh văn giao tiếp (AVGT) theo định hướng TOEIC, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 10 GV Khoa Ngoại ngữ (Trường CĐ Công nghệ Thủ Đức) về PPDH và cách thức giảng dạy. Kết quả khảo sát cho thấy có sự chênh lệch về PPDH trong quá trình dạy học môn AVGT. Xếp thứ nhất là phương pháp tình huống (Situation Method) được đa số GV (80%) sử dụng ở mức độ thường xuyên. Xếp thứ hai và thứ ba là phương pháp chức năng (Functional Method) và phương pháp giao tiếp (Communicative Method). 40% GV sử dụng ở mức độ thường xuyên… GV vẫn sử dụng các PPDH truyền thống trong giảng dạy tiếng Anh theo định hướng TOEIC nhưng ở mức độ thỉnh thoảng hoặc rất ít sử dụng. Khi áp dụng những phương pháp truyền thống, GV chủ yếu sử dụng bảng phấn – một phương tiện chính để truyền tải thông tin đến người học. Các PPDH hiện đại cũng được chú trọng nhằm giúp khơi dậy, phát huy tính tích cực và tiềm năng của người học như phương pháp tình huống, chức năng và giao tiếp. Các phương pháp này hoàn toàn phù hợp với thể thức thi TOEIC khi các dạng bài tập được thiết kế theo tình huống và chức năng (Task-based Teaching and Learning) như ở cửa hàng, tại quán ăn, quảng cáo, thư thương mại… Người học có thể vận dụng kiến thức ngôn ngữ được học vào thực tế để giao tiếp và làm việc. Về cách thức dạy học, 20% GV chọn cách dạy và học “GV giải thích kỹ từng nội dung bài học và cho ví dụ minh họa”. Hướng triển khai này hoàn toàn thực hiện chức năng truyền thụ của GV, áp dụng khi phải chuyển giao kiến thức mới và khó so với khả năng tìm tòi của SV chứ không áp dụng cho tất cả các nội dung của bài dạy. Hướng tiếp cận này phù hợp với PPDH thuyết trình, thông báo tái hiện của GV và phù hợp với những SV học thụ động – nghe, hiểu và tái hiện. 80% GV chọn cách “GV chỉ giảng một số nội dung quan trọng, còn các nội dung khác giao cho SV thảo luận nhóm ở trên lớp, sau đó GV tổng kết”. Với hướng triển khai bài dạy kiểu này thể hiện cả hai chức năng của GV là truyền thụ và điều khiển. Vì thế, cách này tạo điều kiện cho SV độc lập trong quá trình lĩnh hội tri thức bằng hoạt động tự học ở trên lớp – tự học giáp mặt thầy. 20% GV chọn hướng “GV giao một vấn đề, gợi ý tài liệu tham khảo để SV tự giải quyết, sau đó báo cáo ở trên lớp, GV tổng kết”. Cách triển khai bài dạy này cũng tương tự như cách ở trên, chỉ có khác là tự học của SV được thực hiện ngoài lớp – tự học không giáp mặt thầy nên tính tự giác, độc lập và tính tự chủ của SV được đẩy lên cao hơn khi tự học giáp mặt thầy.
Không có GV nào chọn cách dạy và học mà khả năng tự học của SV được phát huy cao độ – tự học với giáo trình. Phải chăng GV không tin tưởng vào khả năng tự học của SV khi không giáp mặt thầy? Mặt khác, để thực hiện được cách dạy và học này cần nhiều điều kiện phục vụ cho tự học như tài liệu tham khảo, thời gian…
Kiến nghị
Xây dựng các chương trình đào tạo phù hợp với từng nhóm SV, cho phép SV tự tổ chức việc học tập và minh chứng cho khả năng tiếng Anh của mình bằng các chứng chỉ do các đơn vị đào tạo có uy tín trong hoặc ngoài nước cấp; kiểm tra và đánh giá việc đổi mới PPDH ở từng GV; động viên GV tham gia tích cực đổi mới PPDH bộ môn, tạo nên phong trào đổi mới PPDH hầu có tác dụng đồng bộ đến nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học của GV, cách thức GV ứng dụng ICT trong giảng dạy và phong cách học tập của SV…
ThS. Đỗ Thị Dung
(Trường CĐ Công nghệ Thủ Đức)

SV học ngoại ngữ với GV nước ngoài. Ảnh: Anh Khôi

Bình luận (0)