|
Cô Hồng Phi (cầm micrô) và các bạn đồng nghiệp
|
Đã hết giờ học buổi chiều, sân trường gần như vắng bóng học viên (HV), thế nhưng trong phòng giáo viên (GV) của Trung tâm GDTX Q.1 vẫn còn nhiều thầy cô ở lại để chuẩn bị cho các tiết học buổi tối. Cô Phạm Thị Hồng Phi – Tổ trưởng bộ môn văn – cùng các đồng nghiệp tranh thủ ăn vội ổ bánh mì để “tiếp sức”cho công việc buổi tối.
Dạy xong tiết cuối cùng của buổi chiều, thay vì chạy xe về nhà nghỉ ngơi cùng gia đình, cô Hồng Phi phải ở lại trường…
Gắn bài giảng vào thực tế
Nếu như ở trường phổ thông thầy cô chỉ dạy một ca (sáng hoặc chiều) thì tại trung tâm GDTX, việc GV đứng lớp ba ca (sáng, chiều và tối) không phải là chuyện hiếm. Do “chạy sô” liên tục nên nhiều GV hầu như có mặt suốt ngày ở trung tâm, coi phòng GV là… nhà. Ở đó, ngoài thời gian nghỉ ngơi, GV còn tranh thủ đọc báo, xem lại giáo án và cùng trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp. Tuy nhiên, khi đã xác định đó là trách nhiệm thì các thầy cô đều chấp nhận khó khăn, xem như là thử thách mà mình phải cố gắng vượt qua.
Cô Hồng Phi tâm sự, thời gian học ở trường sư phạm cô cũng như bạn bè không ai xác định sau này ra trường sẽ dạy hệ GDTX, nhưng khi “định mệnh đưa đẩy” thì hầu hết đều thích ứng với môi trường này, và điều quan trọng là tìm cách thích nghi với đối tượng. Nhiều người nghĩ rằng so với dạy phổ thông thì dạy GDTX sẽ “nhẹ gánh” hơn. Tuy nhiên, theo cô Hồng Phi, đó là một quan niệm không đúng. Trong mỗi giáo án, yêu cầu về kiến thức trọng tâm cũng phải đảm bảo và bám sát chương trình SGK. Bên cạnh đó, đối tượng HV có đặc thù riêng mà HS phổ thông không có. Không chỉ khác nhau về độ tuổi mà các em còn chênh lệch về trình độ nhận thức nên cách dạy không thể đồng nhất, một chiều. Vì những hoàn cảnh khác nhau mà con đường học hành của các HV thường bị “gãy” giữa chừng. Kiến thức cũng vì thế mà theo thời gian cứ rơi rụng dần. Do đó, cách dạy của GV không phải có bao nhiêu tri thức thì truyền thụ đến các em bấy nhiêu mà phải tìm cách “chế biến” làm sao cho phù hợp với “khẩu vị” của đối tượng. Đây chính là tài nghệ của mỗi GV nhằm giúp HV tiếp cận được với các loại kiến thức từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. Vì dạy nhiều khối lớp nên bắt buộc GV phải soạn nhiều giáo án. Do đó, trong cặp của cô Hồng Phi lúc nào cũng có ít nhất hai cuốn giáo án. Vừa ôn tập cho HV lớp 12, vừa dạy cho HV lớp 10 và có khi cả lớp 11…
“Mỗi bài giảng không thể trung thành hoàn toàn với những gì mà GV đã soạn trong giáo án. Đứng trước thực tế tiết học và đặc biệt là đối tượng HV là công nhân đi học, bài giảng phải linh hoạt hơn, gắn vào thực tế một cách sinh động. Có như vậy đường đến với bài học sẽ gần gũi và thiết thực hơn” – Cô Hồng Phi tâm sự.
Có một điều mà ít người biết, tuy là GV tốt nghiệp Trường CĐSP nhưng khi ra trường, do có năng khiếu và khả năng sư phạm đặc biệt nên cô Hồng Phi đã được “đặc cách” dạy bậc THPT. Đây cũng là “bệ phóng” giúp cô đỗ thủ khoa trong kỳ thi tuyển sinh ĐH hóa năm 1999 sau 20 năm đứng trên bục giảng.
Đi tìm… nhãn tự
Khi HV mới vào trung tâm, cô Hồng Phi thường “dò la thông tin” xem các em có yêu thích bộ môn văn hay không. Bởi vì có nhiều HV không chỉ thờ ơ với bộ môn văn mà còn có quan niệm sai lệch về bộ môn này. So với các môn khoa học tự nhiên, số HV giỏi văn hầu như không có. Buồn hơn, một vài HV học yếu còn có quan niệm coi thường bộ môn: “Môn văn không cần học nhiều chỉ cần… bịa ra là được”(?). Nếu ai có “cái tôi” quá lớn chắc chắn không thể an tâm dạy được. Trăn trở đó đã giúp cô định hướng dần cho HV về cách học cũng như thái độ đối với bộ môn. Điều chỉnh suy nghĩ không đúng của HV qua việc cho các em làm đề văn: “Có người quan niệm rằng văn chương không cần thiết đối với con người”, cô xác định phải làm sao cho các em yêu thích bộ môn qua từng bài giảng của người thầy. Không chỉ dừng lại việc trau chuốt các tiết học, cô Hồng Phi còn giúp HV cách làm từng bài văn, vì theo cô, nhiều em vẫn còn mơ hồ trong phương pháp làm một bài văn cụ thể. Cô thường đưa hình ảnh ví von để các em nhìn thấy tầm quan trọng của phương pháp làm bài: “Con thuyền nào cũng ra khơi từ bến. Khi ra ngoài biển rộng phải xác định cho mình một hướng đi đúng. Nếu lỡ đi quá xa thì cũng nhớ quay về bến cũ. Làm một bài văn cũng vậy, nếu hướng đi mơ hồ thì sẽ bị lạc đề và không thể nào quay về bến xuất phát ban đầu được”.
Để HV nhuần nhuyễn trong kiểu bài phân tích thơ, cô khơi gợi và khuyến khích năng lực cảm thụ tác phẩm. Không chỉ chú ý từng câu từng đoạn mà phải quan tâm cả từng từ vì mỗi từ là một “con mắt” của bài thơ. Để cụ thể hóa phương pháp, cô đã vẽ lên bảng một khuôn mặt người chỉ có mũi và miệng để các em tự nhận xét. Sau đó cô mới điền thêm đôi mắt vào khuôn mặt và – cô giải thích – đôi mắt đó chính là một từ đắt giá trong câu thơ (nhãn tự) đã mở rộng cánh cửa tâm hồn cho tác phẩm. Cô yêu cầu không chỉ “gọi được tên” của từ đó mà ở cấp độ cao hơn người làm bài phải chỉ ra được hiệu quả của từng biện pháp nghệ thuật. Dù HV đã học qua THCS nhưng cô vẫn kiên trì dạy các em viết câu đúng ngữ pháp có đủ chủ, vị ngữ rồi lúc đó mới yêu cầu viết câu hay. Mỗi khi đặt bút lên trang giấy trắng làm bài, HV nhớ mãi lời cô dặn: “Đằng sau một nét chữ, mỗi bài viết đều thấp thoáng bóng dáng nhân cách con người”.
Bài, ảnh: Nguyễn Hoàng Anh
| Ngoài thời gian dạy học cô còn tham gia viết bài cho một số chương trình cải cách và thay SGK ngữ văn GDTX. Trong Hội nghị khoa học lần thứ nhất tổ chức tại Thừa Thiên – Huế, cô Phạm Thị Hồng Phi đại diện cho các tỉnh, thành phía Nam báo cáo tham luận thuyết phục về chương trình thay sách. Và bằng khen của Bộ GD-ĐT đã trở thành dấu ấn khó quên về sự đóng góp của cô Hồng Phi trong công tác đổi mới phương pháp giảng dạy và chương trình thay SGK của toàn quốc đối với GDTX. |


Bình luận (0)