Ngôi làng xây dựng trên mặt nước tại Brunei được nhà biên sử người Ý, Antonio Pigafetta gán cho tên “Venice miền viễn đông”.
Việc đầu tiên Antonio Pigafetta muốn làm khi đến Brunei vào năm 1521 là tham quan làng nước – nhà sàn của người châu Âu. Ngày nay, sau hơn 500 năm, làng nước vẫn giữ nguyên hình ảnh một cộng đồng miền quê yên ả trên mặt sông với những con thuyền. Mặc dù nơi đây có nhiều thay đổi như sự phát triển của truyền hình vệ tinh, vật liệu xây dựng… nhưng hình ảnh về ngôi làng trên mặt nước vẫn được giữ nguyên.
Làng nổi Kampong Ayer yên ả trên sông. |
Tên nước chính thức của Brunei là Ngara Brunei Darussalam (đất nước Brunei, nơi chốn bình yên). Trong đó,"Darussalam" theo tiếng Ả Rập có nghĩa “nơi chốn bình yên”. Lịch sử Brunei có từ hơn 1.500 năm trước. Nhiều bằng chứng lịch sử chứng minh rằng, khoảng thế kỷ thứ 6 sau công nguyên, Brunei có giao thương với Trung Hoa. Những nhà buôn lúc đó gọi đất nước này là Vương quốc Puni hoặc Poli.
Vào thế kỷ thứ 14, đạo Hồi trở thành quốc giáo của Brunei. Vào thời đó, vương quốc Hồi giáo này trải dài từ phía nam là đảo Borneo, ôm trọn vẹn Indonesia và vươn tới phía bắc là Philippine. Vương quốc Brunei kéo dài sự hưng thịnh đến thế kỷ thứ 16 trước khi bị thực dân phương Tây nhấn chìm trong ách nô lệ suốt nhiều thế kỷ.
Làng nổi Kampong Ayer. |
Ngày nay, mọi người biết đến Brunei như một quốc gia xuất khẩu dầu hỏa. Doanh thu từ dầu hỏa chiếm tỷ trọng 95% trong kim ngạch xuất khẩu.
Về phương diện địa lý, vương quốc trải dài trên diện tích 5.765 km2, nằm ở bờ tây bắc đảo Borneo. Đó là bang Malay lâu đời nhất ở Borneo. Láng giềng của vương quốc bao gồm bang Sabah, Sarawak của Malaysia và Kalimantan của Indonesia.
Đài tưởng niệm thùng dầu thứ 1 tỷ được chiết xuất tại Seria-Brunei. |
Brunei có 4 quận: Brunei – Muara (bao gồm thủ đô Bandar Seri Begawan), Temburong, Tutong va Belait. Nguồn thu chủ yếu từ dầu hỏa, khí hóa lỏng ở duyên hải Seria, Kuala Belait (cách thủ đô khoảng 100 km). Dân số của Brunei hiện nay gần 400.000 người, 2/3 là người gốc Mã lai. Phần còn lại là người Hoa, những sắc tộc thiểu số khác và người lao động nước ngoài.
Ngôn ngữ chính của Brunei là tiếng Mã Lai. Tuy nhiên, tiếng Anh cũng được dùng phổ biến. Đạo Hồi là tôn giáo chính thức của vương quốc nhưng những người theo các tôn giáo khác vẫn được tôn trọng.
Theo VNE
(Nguồn: Tổng cục Du Lịch Brunei)
Bình luận (0)