|
Quá khó để các trường khảo sát tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm một cách chính xác. Ảnh: B.Phan
|
Theo yêu cầu ba công khai của Bộ GD-ĐT quy định, các trường ĐH, CĐ đều phải tiến hành khảo sát thông tin tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp. Đây cũng là công việc đóng vai trò cốt yếu giúp nhà trường định hướng ngành nghề đào tạo phù hợp với nhu cầu xã hội…
Có một thực tế là sinh viên sau khi ra trường không phải ai cũng mặn mà trong việc truy cập web trường mình đã học để điền thông tin việc làm. Bởi vậy, nhiều trường đưa ra khảo sát này với quy mô nhỏ và con số mang tính chất tương đối phỏng đoán.
Mỗi trường làm một kiểu
Theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay đa số các trường ĐH, CĐ trên địa bàn TP.Đà Nẵng đều có trang web, trong đó ưu tiên dành hẳn ra mục ba công khai, hoặc thông tin công khai. Ở đây, người đọc dễ dàng tìm thấy các thông tin về tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp ở các trường này. Tuy nhiên, không phải trường nào cũng có thông số cụ thể về tỷ lệ việc làm của sinh viên từng ngành, thậm chí nhiều trường còn thừa nhận đây chỉ là một khâu mang tính tương đối vì quá trình triển khai thu thập thông tin còn gặp nhiều khó khăn, bất cập.
Do đó, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm được các trường công bố theo mỗi cách khác nhau. Có trường chi tiết, có trường lại nói cái chung tổng thể, có trường tìm mỏi mắt vẫn không thấy tỷ lệ cụ thể là bao nhiêu. Đơn cử như công bố của Trường CĐ Công nghệ Đà Nẵng, tỷ lệ sinh viên có việc làm được thông tin chi tiết cụ thể từng ngành. Thế nhưng, Trường ĐH Kinh tế thì chỉ công bố tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm của toàn trường là 80,6%. Tại Trường ĐH Bách khoa, đối với các ngành thuộc chương trình tiên tiến và chương trình hợp tác quốc tế như điện tử, truyền thông, vi điện tử, viễn thông, sản xuất tự động, tin học công nghiệp, kỹ thuật công trình xây dựng thì tỷ lệ này là 100%; đối với các ngành thuộc chương trình đào tạo đại trà, nhà trường chỉ công bố tỷ lệ chung là 92%. Trong khi đó, Trường CĐ Thương mại Đà Nẵng tỷ lệ là 82,6% cho cả hai năm học liên tiếp và dùng cho cả 4 ngành đào tạo bậc CĐ… Điều đáng chú ý, trong 100 trang báo cáo tự đánh giá để đăng ký kiểm định chất lượng giáo dục của Trường CĐ Phương Đông, nhà trường chỉ thông báo chỉ số sinh viên có việc làm đúng ngành đào tạo sau 6 tháng và một năm. Còn Trường ĐH Ngoại ngữ lại để trống toàn bộ phần liên quan đến số phần trăm sinh viên có việc làm sau một năm ra trường…
Độ chính xác không cao
Về con số thống kê mang tính chính xác, nhiều trường thừa nhận rằng đó là một việc làm vô cùng khó. Báo cáo của Trường CĐ Phương Đông thừa nhận việc khảo sát và thống kê số liệu về sinh viên tốt nghiệp có việc làm phù hợp với ngành nghề đào tạo chưa được thực hiện rộng rãi, chưa bao quát hết các ngành, các trình độ đào tạo… Ông Lê Ngọc Nguyên, Trưởng phòng Đào tạo Trường CĐ Phương Đông, cho biết nhà trường chỉ có thể tiến hành khảo sát ở địa bàn TP.Đà Nẵng và một vài tỉnh lân cận như Quảng Nam, Quảng Ngãi… Tuy nhiên, thông tin này không phải có quy mô mà chỉ thông qua những sinh viên cũ còn giữ liên lạc với thầy cô giáo trong trường cho biết.
Tương tự, Trường ĐH Kinh tế Đà Nẵng thì lại lấy số liệu thông qua sự liên lạc với các lớp trưởng của mỗi lớp. Về vấn đề này, nhà trường cũng thừa nhận họ chưa thường xuyên điều tra, khảo sát tình hình sinh viên tốt nghiệp, chưa xây dựng kế hoạch đánh giá, khảo sát chất lượng đào tạo đối với người học sau khi ra trường, chưa mở rộng khảo sát các nhà tuyển dụng lao động về mức độ đáp ứng mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục của nhà trường với nhu cầu sử dụng lao động.
Ngoài việc lấy thông tin qua kênh sinh viên cũ còn giữ liên lạc, rồi thông tin trên website nhà trường, nhiều trường còn nghĩ ra cách phát biểu mẫu cho sinh viên khi họ trở lại trường lấy bằng tốt nghiệp. Thế nhưng, đây không phải là cách làm hay vì sinh viên đến nhận bằng lẻ tẻ, thậm chí có không ít sinh viên ra trường cả chục năm vẫn chưa quay trở lại lấy bằng. Đó là chưa kể, nhiều sinh viên khi điền vào biểu mẫu khảo sát việc làm lại ghi khống hoặc không đồng ý điền vào.
TS. Võ Như Tiến, nguyên Hiệu trưởng Trường CĐ Công nghệ cũng thừa nhận, thông tin tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp là một kênh để nhà trường theo dõi những biến động của thị trường lao động, nhưng sự tích cực trong phản hồi của sinh viên thường là không cao. Chưa kể, những sinh viên ở xa hoặc mới có việc làm, không thể quay về trường nhận bằng được. Bởi vậy số liệu thống kê tỷ lệ này là có thực nhưng sự phản ánh bản chất chưa thực sự trung thực. Đó cũng là ý kiến của nhiều lãnh đạo trường ĐH, CĐ trên địa bàn TP.Đà Nẵng.
Có một thực tế mà ai cũng biết, nếu như nắm được số liệu sinh viên sau tốt nghiệp có việc làm và có việc làm đúng ngành nghề thì nhà trường sẽ có định hướng đúng trong kế hoạch đào tạo ngành nghề phù hợp nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, công việc này đòi hỏi sự gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường và sinh viên trong quá trình khảo sát. Đó là chưa kể, đặt ra tiêu chí khảo sát đòi hỏi nhà trường phải có đội ngũ thống kê, theo sát từng thế hệ sinh viên ra trường không chỉ trong một năm mà nhiều năm. Bởi lẽ, không phải sinh viên nào ra trường cũng có thể tìm được việc làm ngay sau chừng ấy thời gian, đó là chưa kể việc tìm đúng ngành nghề mình học. Nếu như không muốn nói đây là một việc làm khó thì gần như tất cả các trường đều lấy một con số mang tính phỏng đoán, chưa mấy chính xác.
Phan Vĩnh Yên
| “Thông tin tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp là một kênh để nhà trường theo dõi những biến động của thị trường lao động, nhưng sự tích cực trong phản hồi của sinh viên thường là không cao”, TS. Võ Như Tiến, nguyên Hiệu trưởng Trường CĐ Công nghệ, cho biết. |


Bình luận (0)