Mặc dù giới hạn nội dung chương trình đã có, cấu trúc đề, thang điểm cũng đã rõ ràng, song nhiều học sinh vẫn chưa tìm ra cách ôn bài phần văn học của môn ngữ văn cho thật hiệu quả. Để ôn bài tốt, các em cần có ba kỹ năng sau đây.
Trước khi ôn tập, học sinh phải nắm bao quát toàn bộ giới hạn nội dung ôn thi (ảnh minh họa). Ảnh: Anh Khôi |
Hệ thống hóa kiến thức
Trước hết phải nắm bao quát toàn bộ giới hạn nội dung ôn thi. Ở chương trình lớp 12, giới hạn này nằm ở bài Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến hết thế kỷ XX. Bài khái quát này giúp ta hệ thống toàn bộ tác phẩm có trong nội dung ôn thi; nắm được các đặc điểm cơ bản của từng giai đoạn văn học (tính hiện đại hóa, tính cách mạng hóa, khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn…); nắm được từng tác phẩm thuộc giai đoạn nào của quá trình phát triển văn học; tác phẩm nào thuộc thời kì nào (chống Pháp, chống Mỹ hoặc thời kì đổi mới sau năm 1975)… Để từ đó có cơ sở hiểu đúng nội dung tư tưởng, quan điểm thẩm mỹ, quan điểm nghệ thuật, tư tưởng chính trị của từng tác phẩm và chùm tác phẩm. Ví dụ, khi ôn các tác phẩm Vợ nhặt (Kim Lân) và Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), cần thấy đây là hai tác phẩm viết trong hai giai đoạn trước và sau 1975, cho nên cần thấy được sự khác nhau về cảm hứng/ mục đích sáng tác, cảm hướng tư tưởng thế sự, giá trị hiện thực, tính nhân bản, nhân văn về đời sống con người trong xã hội…
Điều cần thiết là thí sinh cần hình dung, và xây dựng một dàn ý bài làm cho từng dạng đề để ôn bài có hệ thống, nhanh chóng và hiệu quả. |
Thứ hai, phải có cái nhìn theo nhóm thể loại. Toàn bộ chương trình lớp 12 quy về các thể loại sáng tác sau đây: văn chính luận, nghị luận; thơ ca; truyện ngắn; tùy bút, bút kí; văn bản kịch. Hệ thống theo thể loại giúp ta ôn tập đúng hướng nội dung từng thể loại (vì mỗi thể loại có đặc trưng riêng) và tiên đoán trước dạng đề bài mà đề thi sẽ cho. Ví dụ, khi ôn văn bản kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ), phải chú ý đến các mâu thuẫn xung đột kịch – vì bản chất của kịch là xung đột – và từ các mâu thuẫn ấy rút ra ý nghĩa, bài học gì? Hay khi ôn các tác phẩm thuộc thể loại chính luận (như Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh) chú ý nhiều nhất đến các luận điểm thể hiện trong nghệ thuật lập luận. Như thế, đối với văn bản chính luận, đề sẽ hỏi phổ biến hơn cả là phân tích nghệ thuật lập luận của một phần tác phẩm hoặc toàn bộ tác phẩm…
Xác định các nhóm chủ điểm
Việc xác định các chủ điểm giúp người ôn tập có cái nhìn trong quan hệ tương quan, so sánh nhiều tác phẩm. Vì vậy sẽ dễ nhớ, và ôn tập không mất nhiều thời gian. Có nhiều chủ điểm về đề tài, chủ đề, hình tượng nhân vật, cảm hứng tư tưởng, bút pháp nghệ thuật, phong cách tác giả… Chẳng hạn về đề tài đất nước: có các bài Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước – Nguyễn Đình Thi (đọc thêm). Về đề tài tình yêu: có Sóng – Xuân Quỳnh, Vội vàng – Xuân Diệu, Tương tư – Nguyễn Bính (lớp 11). Về vẻ đẹp hình tượng người phụ nữ: có các nhân vật Mị, bà cụ Tứ, người đàn bà hàng chài… Về vẻ đẹp của các con sông: có sông Đà, sông Hương. Về cảm hứng lãng mạn cách mạng: có Tây Tiến, Việt Bắc, Vợ chồng A Phủ… Về khuynh hướng sử thi, chủ nghĩa anh hùng cách mạng: có Việt Bắc, Rừng xà nu, Những đứa con trong gia đình… Về giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo: có Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt… Về phong cách nghệ thuật, bút pháp sáng tác: có các tác giả Tố Hữu, Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường… Ví dụ so sánh bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường qua hai tác phẩm tùy bút, bút kí (hoặc hai đoạn văn của hai tác phẩm) Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông? Cần thấy ở đây là dạng đề bài theo chủ điểm thường được chú ý trong các kỳ thi gần đây.
Mặc dù đề thi những năm trở lại đây thường ra theo hướng gợi mở để tránh thí sinh ôn bài theo cách “học tủ, học vẹt”, thế nhưng thí sinh cũng cần hình dung có bao nhiêu dạng đề bài sẽ cho trong các văn bản đã học để xây dựng một dàn bài hợp lí. Ví dụ: về thơ, có dạng đề phân tích/ cảm nhận về một khía cạnh bao trùm bài thơ, hoặc một đoạn thơ. Chẳng hạn bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh), đề có thể yêu cầu về hình tượng “sóng” trong bài thơ hoặc vài đoạn thơ bất kì. Tương tự như thế, về văn xuôi, có các dạng đề bài phân tích/ cảm nghĩ về nhân vật, tình huống, một khía cạnh như giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, bút pháp nghệ thuật… Các thể loại khác như văn chính luận, kịch cũng đều có một cách yêu cầu, một hướng phân tích riêng. Thế nên, điều cần thiết là thí sinh cần hình dung, và xây dựng một dàn ý bài làm cho từng dạng đề để ôn bài có hệ thống, nhanh chóng và hiệu quả.
Lập sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy là cách hệ thống kiến thức bài học ngắn gọn theo một bộ khung dàn ý. Mặc dù chỉ là dàn ý nhưng dựa vào đó người học có cơ sở để nhớ toàn bộ tác phẩm. Đây là cách ôn nhiều người khuyên dùng trong thời gian gần đây vì ngắn gọn, cô đọng, dễ nhớ… Có nhiều sơ đồ tư duy, tùy theo đặc trưng của từng tác phẩm. Ví dụ từ nhan đề (chẳng hạn Vợ nhặt), từ tác giả (như Hồ Chí Minh), từ nhân vật (như nhân vật Phùng – Chiếc thuyền ngoài xa), hoặc một chi tiết ý nghĩa nhất của tác phẩm (như bàn tay của nhân vật Tnú – Rừng xà nu)…
Một sơ đồ tư duy có thể cho người ôn tập hệ thống được ý của nhiều tác phẩm cùng một lúc. Ví dụ một sơ đồ tư duy về nhân vật có thể hệ thống được rất nhiều các nhân vật có trong chương trình lớp 12.
Trần Ngọc Tuấn
(Trường THPT Lý Tự Trọng, TP.HCM)
Bình luận (0)