Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

“Làng ông lò” Phú Định: Kỳ cuối: Những người khôi phục làng nghề

Tạp Chí Giáo Dục

Diễm, cô gái trẻ lớn lên trong gia đình có ba đời làm nghề nắn ông lò
Hàng loạt cơ sở nắn ông lò đóng cửa nhường chỗ cho khu đô thị mới, nhà cao tầng. Nhiều chủ lò cũng đã đổi vuông đất để lấy tiền tỷ gửi ngân hàng cho sướng cái thân. Nhưng ở Phú Định, vẫn còn không ít người cố níu giữ nghề “cho đến ngày không thể”…
Trong số ít lò còn lại của làng Phú Định có cơ sở bếp lò của anh Năm Tiếp hoạt động khá hiệu quả. Hiện tại, ngoài 20 thợ chính, cơ sở Năm Tiếp còn có hơn chục thợ phụ khác với thu nhập trung bình khoảng 4 triệu đồng/tháng.
Sinh tử với nghề
Năm 14 tuổi, anh Tiếp theo học nghề nắn ông lò của người Hoa ở làng Phú Định. Nói là học nghề nhưng chủ lò không dạy nghề mà chỉ cho phụ việc vặt từ năm này qua năm khác. Dù nghề này không là nghề truyền thống của gia đình nhưng vì lòng yêu nghề đã thôi thúc anh học nghề bằng mọi cách. Cứ vào giờ nghỉ, mọi người về hết là lúc anh Tiếp lôi những bếp lò hư ra mày mò tập nắn. Siêng năng cộng với lòng kiên trì, chẳng bao lâu anh Tiếp đã có chút kinh nghiệm. Tuy nhiên, khi anh có thể làm được một số khâu cơ bản cũng là lúc chủ lò cho anh nghỉ việc vì tội “ăn cắp nghề”.
Ngay sau đó, anh Tiếp lên đường thực hiện nghĩa vụ quân sự. Mãn thời hạn, anh Tiếp về mở cơ sở làm bếp lò. Ban đầu, lò anh Tiếp chỉ làm vài cái một ngày để đẩy xe đi bán dạo. Anh Tiếp lập nghiệp với vốn kinh nghiệm ít ỏi và hai bàn tay trắng. Anh Tiếp nhớ lại: “Thời gian đầu thiếu thốn trăm bề, đến một cái khuôn để quay lò mà cũng phải đi mượn khắp nơi. Vay mượn của người bạn trong quân ngũ được chút ít để mua nguyên liệu (đất sét) về làm. Đã vậy còn phải đối mặt với sự ganh ghét của các chủ lò vì “miếng bánh” thị trường bị chia nhỏ. Hàng trăm bếp lò chờ nung đã bị kẻ xấu lẻn vào đập phá, lúc đó coi như cụt vốn. Mọi người khuyên nên bỏ nghề chứ không khéo lại nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng tôi quyết tâm theo nghề cho bằng được”. Đến nay, anh đã có một cơ ngơi vững chãi, đó là cơ sở với trên 30 lao động và hàng trăm đại lý ở khắp các tỉnh thành từ miền Đông, miền Tây và cả Tây Nguyên.
Nghề nắn bếp lò coi đơn giản vậy chứ không dễ học. Không ít người học được hai, ba ngày là bỏ vì khó lại cực. Đó là lý do thứ hai (thứ nhất là thu nhập thấp) khiến nghề này rất hiếm thợ. Theo tìm hiểu của chúng tôi, cả làng Phú Định hiện nay chỉ còn lác đác vài lò nhưng chỉ hoạt động với quy mô nhỏ. Anh Tiếp là người đã níu giữ nghề làm bếp lò truyền thống của làng Phú Định. Nói ý này bởi nhiều năm nay, các công ty kinh doanh địa ốc dòm ngó lô đất nơi anh Tiếp làm nghề. Họ liên tục “thổi lỗ tai” anh để mua miếng đất có giá gần trăm tỷ đồng nhưng anh không đồng ý. Anh Tiếp quyết giữ nghề, cái nghề mà anh có lắm buồn, ít vui. Không chỉ giữ nghề mà anh Tiếp còn chú trọng đến việc nâng tầm thẩm mỹ, cải tiến về mẫu mã và quan tâm đến chất lượng của bếp lò.
“Bóng hồng” giữ nghề
Lò của anh Năm Tiếp có hơn chục lao động nữ, thường làm ở những khâu tương đối nhẹ nhàng, không cần nhiều sức như nam giới. Tuy nhiên, vì cuộc sống gia đình, nhiều chị, em đảm đương tất tần tật ở các khâu. Chị Nguyễn Thị Nữ năm nay đã ngoài 50 tuổi, làm việc ở lò này hơn 10 năm. Thời thiếu nữ, chị Nữ đã là thợ chính, được chủ các lò trong làng Phú Định “săn đón”. Nhà nghèo, năm 13 tuổi chị Nữ phải theo mẹ đi phụ việc ở lò, sau đó học nghề. “Tính đến đời con Diễm (con gái chị Nữ) nữa là gia đình tôi có ba đời làm nghề. Không biết đến đời con của nó thì nghề này có còn không?”. Tôi hiểu ý chị Nữ đang lo lắng rồi một ngày nào đó nghề sẽ mai một. Song, không vì thế mà “lửa” nghề trong chị Nữ cũng như bao người khác giảm đi. Mà ngược lại, họ làm việc cật lực như sợ rằng ngày mai này sẽ không được làm công việc này nữa.
Trong số những lao động nữ làm nghề nắn ông lò mà tôi tiếp xúc, người làm lâu năm nhất cũng đã trên 30 năm, ít nhất là bảy năm. Diễm từng bỏ nghề, theo làm công việc nhẹ nhàng, ổn định, đồng lương kha khá nhưng rồi lại quay về với nghề nắn ông lò. Diễm tâm sự: “Hồi còn nhỏ bà ngoại có nói, làm nghề bếp lò tuy cực mà vui, đã làm là ghiền khó mà bỏ được. Một ngày không làm là tay chân khó chịu. Lúc ấy, mình chỉ nghĩ người già đã quen lao động, hôm nào không làm là bứt rứt nhưng đến giờ mình cũng vậy, thử nghỉ một ngày là nhớ công việc lắm”.
“Bóng hồng” làm nghề nắn ông lò thường đảm nhiệm khâu nung. Tuy không cần dùng sức nhiều như lao động nam nhưng đòi hỏi ở người phụ nữ sự nhanh nhạy, hoạt bát. Chị Nhung có thâm niên nung lò gần 20 năm. Nói về cơ duyên đến với nghề, chị Nhung bảo: “Hồi đó nhà nghèo lắm, anh chị em tôi học đến lớp 5 là phải nghỉ ở nhà phụ việc ở lò của ông nội. Ông nội mất, cha tôi kế thừa nghề. Đến khi vùng đất này đô thị hóa cũng là lúc lò ngưng hoạt động. Trước khi nhắm mắt, cha tôi dặn dò rằng: “Gia đình mình không đủ điều kiện để mở lò trở lại. Thôi thì đứa nào còn yêu nghề thì đi làm công, không thì thôi”…”. Dù thu nhập chỉ tạm đủ sống nhưng chị Nhung cảm thấy mình rất hạnh phúc vì còn được theo nghề của gia đình cho đến ngày hôm nay, cái ngày mà nghề nắn ông lò Phú Định chỉ còn ít thợ, ít lò.
Bài, ảnh: Trần Tuy An

“100 tỷ đồng là quá lớn, có nó mình có thể làm được nhiều thứ, nhưng lại quá nhỏ khi muốn giữ được hình ảnh của làng bếp lò Phú Định. Rồi hàng chục lao động là hậu duệ của nghề sẽ đi về đâu? Tôi phải cố giữ nghề bằng mọi giá để cuộc sống này có màu sắc, thêm chút thi vị”, anh Năm Tiếp tâm sự.

 

Bình luận (0)