Sự kiện giáo dụcVấn đề - Sự kiện

Thái Bình: Tập trung làm tốt công tác dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 – 2020

Tạp Chí Giáo Dục

Nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, duy trì mức sinh thay thế, ổn định quy mô dân số và giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số. Đó là những mục tiêu tổng quát được tỉnh Thái Bình vạch ra, hướng đến việc giải quyết tốt những vấn đề liên quan đến dân số và sức khoẻ sinh sản giai đoạn 2011 – 2020.
Trong 10 năm qua (2001 – 2010), nhờ sự cố gắng và nỗ lực không ngừng của các cấp, các ngành, công tác dân số (DS) và sức khoẻ sinh sản (SKSS) của Thái Bình đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được, công tác DS/SKSS cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức như: quy mô dân số lớn, trên 1,8 triệu người; mật độ dân số đông, đứng thứ 6 toàn quốc với 1.152 người/km2; kết quả giảm sinh chưa ổn định và luôn có sự biến động, tỷ lệ sinh và sinh con thứ 3 có giảm nhưng vẫn còn cao; sự mất cân đối về giới tính có dấu hiệu ngày một nghiêm trọng (năm 2000 là 107 nam/100 nữ, năm 2010 là 114 nam/100 nữ, trong khi cả nước là 106 nam/100 nữ); cơ cấu dân số đang chuyển dần từ cơ cấu dân số trẻ sang cơ cấu dân số già (tỷ lệ người già ở Thái Bình cao, đạt 14%, trong khi cả nước là 9%); nhu cầu về cung cấp phương tiện, dịch vụ kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ) ngày càng lớn, nhiều vấn đề SKSS cần tiếp tục giải quyết…
Trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế, xã hội giai đoạn 2011- 2020 của cả nước nói chung và của tỉnh nói riêng, Thái Bình đã vạch ra những mục tiêu cụ thể nhằm giải quyết triệt để những khó khăn còn tồn tại trong công tác dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản (CSSKSS) cho nhân dân, cụ thể là: Quy mô dân số không vượt qua 1,828 triệu người vào năm 2015 và dưới 1,9 triệu người vào năm 2020. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2015 là 0,78, đến năm 2020 là 0,72%. Duy trì mức sinh thay thế 1,8 con/1 bà mẹ. Tỷ suất sinh năm 2015 là 13,04 ‰, đến năm 2020 là 12,3 ‰. Giảm tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên xuống dưới 10%.
Cải thiện chất lượng giống nòi; giảm dần tỷ lệ trẻ em sinh ra bị dị tật bẩm sinh; phấn đấu giảm tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi ở mức dưới 10 ‰ và dưới 5 tuổi ở mức dưới 13‰; giảm tỷ lệ trẻ sinh sống với cân nặng dưới 2.500 gram ở mức dưới 3%; giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng ở mức dưới 15%.
Giảm tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh, khống chế ở mức 111 nam/100 nữ vào năm 2015 và 109 nam/100 nữ vào năm 2020.
Phổ biến thông tin giáo dục, tư vấn và nâng cao hiểu biết về SKSS cho vị thành niên và thanh niên đạt 98% vào năm 2020; giảm nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Tỷ lệ người áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại đạt 80%, giảm tỷ lệ nạo phá thai xuống còn 0,3/ca đẻ sống vào năm 2020. Cải thiện SKSS cho các nhóm dân số đặc thù (người di cư, người khuyết tật, người có HIV, người bị bạo hành giới, nạn nhân thiên tai, thảm họa…). Tăng tỷ lệ tiếp cận dịch vụ CSSKSS của các nhóm dân số đặc thù lên 20% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020.
Tăng thể lực và tuổi thọ trung bình của người dân lên 77 tuổi vào năm 2020. Đến năm 2015, GDP bình quân đầu người đạt 1.800 – 1.900 USD; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55% trở lên, trong đó đào tạo nghề đạt 41,5%; bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho 32 ngàn lao động.
Để thực hiện được những mục tiêu này, các cấp ủy đảng, chính quyền đã tăng cường sự lãnh đạo chỉ đạo, xây dựng đề án, kế hoạch cụ thể, chi tiết nhằm triển khai thực hiện các mục tiêu, đồng thời huy động sự tham gia của toàn xã hội trong thực hiện công tác DS và CSSKSS. Mặt khác, ngành y tế của tỉnh cũng rất chú trọng nâng cao hiệu quả công tác truyền thông, giáo dục chuyển đổi hành vi về DS và SKSS; tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ DS và CSSKSS; tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác DS và SKSS; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường nguồn lực tài chính và xây dựng cơ chế, chính sách về DS-KHHGĐ./.
Theo ĐCSVN

Bình luận (0)