Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Những “linh hồn” của đoàn tàu không số: Bài 1: Người mở luồng vào Khu 5

Tạp Chí Giáo Dục

  Ông Trần Phấn (bên
phải)
 

Con tàu đầu tiên hoàn thành
nhiệm vụ mở luồng đưa 30 tấn vũ khí chi viện cho chiến trường Khu 5 là tàu cá
mang số hiệu 401. Ông Trần Phấn (nay đã 77 tuổi) là thuyền phó kiêm nhiệm vụ tổ
chức chiến đấu là một trong số ít người còn lại trên con tàu huyền thoại 401.
Năm 1964, phong trào đấu
tranh vũ trang ở Khu 5 nổi lên mạnh mẽ nhưng lại thiếu vũ khí nghiêm trọng. Các
chiến sĩ Đoàn 125 được Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ bằng mọi cách phải
mở luồng biển vận chuyển vũ khí chi viện cho Khu 5 với chỉ thị: Đường biển vào
khu 5 khó khăn nhưng không thể để lộ bí mật”.
Nhận nhiệm vụ
Mở luồng vào Khu 5, một nhiệm
vụ đặc biệt quan trọng, nặng nề ấy được đặt trên con tàu mang số hiệu 401. Theo
ông Trần Phấn, (lúc bấy giờ là thuyền phó tàu 401), đây là con tàu gỗ có trọng
tải 35 tấn được đóng theo dạng tàu đánh cá của ngư dân miền Nam có bề ngang 4
mét, dài 15 mét. 30 tấn vũ khí quyết phải chuyển đến tận tay các chiến sĩ Khu 5
bằng con tàu ọp ẹp, cũ kỹ ấy.
Những người nhận nhiệm vụ
trên con tàu 401 có lòng quả cảm, quyết tâm hoàn thành nhưng không khỏi lo lắng
khi biết tin vào năm 1959, cũng đã có một chuyến tàu chở vũ khí chi viện chiến
trường Khu 5 mất tích trước khi cập bến. “Lúc bấy giờ, tư lệnh Nguyễn Bá Phát
cũng chuẩn bị tinh thần khiến buổi tiễn đưa con tàu 401 lên đường làm nhiệm vụ
như lễ truy điệu: “Lần này cũng có thể không gặp lại các anh nữa. Coi như đây
là lễ truy điệu, nhưng tôi luôn hy vọng vào lòng quả cảm, tài trí của anh em…”,
ông Phấn bồi hồi nhớ lại. Ngoài nhiệm vụ thuyền phó, ông Phấn còn kiêm luôn nhiệm
vụ quan trọng là tổ chức chiến đấu. Trần Phấn được cấp trên tin tưởng, đồng đội
và cấp dưới kính nể vì tài đấu trí và xoa dịu tâm lý căng thẳng khi gặp sự cố
trong những ngày vượt biển.
Trần Phấn kể lại, trên đường
đi, tàu nhỏ lại gặp gió cấp 8, cấp 9, chúng tôi quyết định cho tàu tiến vào đảo
Hải Nam, Trung Quốc để tránh nạn và nhờ người dân giúp đỡ. Anh em một chữ Hoa bẻ
đôi cũng không biết, bụng đói, thèm ăn đủ thứ, muốn ăn thịt gà tôi vẽ con gà,
thèm thịt heo tôi vẽ con heo… người ta mới hiểu. Lần đầu tiên trong đời anh em
mới biết mùi vị của trái lê, táo. Người dân cho mấy sọt trái cây, mỗi lần ăn
thì lựa trái nào sắp thối ăn trước để dành phòng khi tàu gặp sự cố có cái mà
lót dạ. Tròn nửa tháng sau, tức ngày 25-10-1964 (cập đảo Hải Nam vào ngày
10-10-1964), biển êm trở lại, tàu bắt đầu tiến vào huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định
theo kế hoạch. Kể đến đây, Trần Phấn chen vào một chi tiết mà theo ông là rất
“đắt” đối với những chiến sĩ trên con tàu 401: “Trên đường đi lại gặp gió to,
sóng phủ kín cả con tàu. Anh em vừa làm nhiệm vụ canh gác tàu địch, vừa phải hì
hục tát nước để cứu con tàu khỏi chìm. Thấy tình hình mỗi lúc một nguy, tôi cố
xoa dịu nỗi lo lắng trong anh em thủy thủ, thợ máy: “Tàu đi dưới sóng thế này
thì không tài nào tụi Mỹ phát hiện” khiến anh em ôm bụng cười quên cả lo lắng.
Trên đường vào Hoài Nhơn, máy bay địch quần vũ bên trên nhiều lần cả ngày lẫn
đêm. Theo chúng tôi nghĩ, lúc ấy bọn chúng nghĩ là tàu đánh cá thật chứ không
tin rằng với con tàu cũ kỹ nhỏ bé kia lại dám cưỡi sóng đi đánh Mỹ”.
Hoàn thành nhiệm vụ
Từ đảo Hải Nam, Trung Quốc đến
bến Giao Lộ, xã Mỹ Đức, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định để trao vũ khí theo lệnh,
con tàu 401 phải mất năm ngày vượt qua sóng gió. Làm thế nào để tàu vào bờ an
toàn là câu hỏi luôn đặt ra trong đầu Trần Phấn. Anh em thay phiên nhau chợp mắt
ngủ để lấy sức, riêng ông Phấn cứ ngồi đó, mấy bận anh em ngủ – thức đều thấy
Trần Phấn tròn xoe mắt với những dòng suy nghĩ miên man. Sáng sớm hôm sau, Trần
Phấn bàn với anh em tổ chức giăng lưới như một tàu cá để tránh sự nghi ngờ của
địch. Qua hai lần phải quay ngược tàu 180 độ sang Đông để né tàu địch và thuận
lợi cho việc chuẩn bị chiến đấu, tàu cũng đã xác định được mục tiêu. Tàu liên tục
đánh tín hiệu nhưng không thấy tín hiệu trả lời của anh em Khu 5? Kim đồng hồ
đã chỉ 2 giờ 45 sáng, nếu cứ tiến vào gần bờ rất dễ bị địch phục kích sẵn thủ
tiêu. Còn phương án chạy lòng vòng để chờ tín hiệu thì càng không ổn. Trần Phấn
nghĩ đến phương án xấu nhất là hủy con tàu để không bị lộ. Theo kinh nghiệm
“nhìn thẳng lên trời để xác định hướng đi”, Trần Phấn xin ý kiến chỉ huy được cầm
lái. Chừng hai giờ sau, phía trước mạn tàu bọt sóng tung trắng xóa, tín hiệu
trên bờ cũng đáp lại liên hồi. Trần Phấn nói khẽ đủ để át tiếng sóng biển: “Tới
rồi, tới bến rồi”. Mọi người vui mừng, hành động nắm chặt tay Trần Phấn thay
cho lời hò reo vui sướng.
 “Từ hai ngày trước, tôi đã xác định trong đầu,
khi cập bến, chuyển vũ khí an toàn, tôi sẽ đốt tàu phi tang nhưng sợ nói ra anh
em phản đối. Số mạng của nó phải kết thúc, nếu để nó tồn tại thì bí mật đường
vào Khu 5 cũng như đường vào chiến trường vào Nam sẽ sớm bị lộ”. Trần Phấn nói.
Khi nhận tin tàu 401 hoàn
thành nhiệm vụ, cấp trên chỉ đạo Trần Phấn đưa anh em vượt núi vào Vũng Rô để
chờ tàu 41 đang trên đường chở 50 tấn vũ khí vào, đón trở về Bắc. Trần Phấn kể
lại: “Mất hai tháng chúng tôi mới vào tới Vũng Rô. Đi ban ngày thì sợ địch phát
hiện, đi ban đêm cọp khắp nơi. Tôi phải vào nhà dân mượn cái xoong vừa đi vừa
gõ để “dọa” cọp. Nghe tôi hỏi mượn xoong, đồng bào ở đây biết là chiến sĩ mang
vũ khí vào, họ vui mừng tiếp đón, nấu cơm cho ăn rồi tặng luôn cái… xoong và
nhu yếu phẩm để ăn tết”. Giao thừa năm 1965 tàu mang số hiệu 41 vào Vũng Rô.
Mùng 2 tết Trần Phấn cùng anh em lại ngược ra Bắc trên tàu 41.
Bài, ảnh: Trần
Trọng Tri
 
Trong buổi giao lưu “Những
con tàu huyền thoại”, đồng đội cũ sau 50 năm mỗi người một phương, giờ gặp lại,
ôm chặt ông Phấn, giọng nghẹn ngào: “Nhờ anh mà tôi còn sống đến ngày hôm
nay”…
 Bài 2: Huỳnh Văn Tiến và trận đánh tám ngày đêm

 

Bình luận (0)