|
Bác sĩ Trương Hữu Khanh đang khám cho bệnh nhi |
“Bác sĩ ơi! Cứu con tôi với, con tôi sắp chết rồi”, “Sao bác sĩ vô cảm vậy, con tôi bệnh sắp chết mà lúc nào bác sĩ cũng tươi cười”, “Sao mặt bác sĩ cứ bí xị vậy. Bác sĩ không biết cười à”… Đó là những câu nói mà ngày nào bác sĩ Trương Hữu Khanh, Trưởng khoa Nhiễm – Thần kinh Bệnh viện (BV) Nhi đồng I cũng phải nghe. Nghe riết rồi trở thành quen và mặc nhiên coi đó là một phần của nghề bác sĩ.
Năm 1988, sau khi tốt nghiệp Trường ĐH Y dược TP.HCM (chuyên ngành tổng quát nội nhi – nhiễm), anh đến BV Nhi đồng I xin việc. Sau gần 5 tháng làm việc không hưởng lương, anh chính thức trở thành bác sĩ…
Khắc tinh của bệnh tay chân miệng
Năm 2010, 2011, bệnh tay chân miệng đã trở nên quá quen thuộc đối với người dân. Nhưng 7-8 năm về trước, căn bệnh này là một ẩn số đối với ngành y tế. Ngay cả một bác sĩ có nhiều kinh nghiệm trong chuyên ngành nhiễm như bác sĩ Khanh cũng phải… “bó tay”.
Anh nhớ lại: “Vào những năm 2002, 2003, nhiều bệnh nhi có các triệu chứng như sốt cao, nổi mụn ở tay chân miệng nhập viện. Nhiều em bị biến chứng lên não đã tử vong. Lúc đó, chúng tôi chưa biết là bệnh gì nên gọi là bệnh viêm não ở trẻ nhỏ. Cũng trong thời gian này, có một bệnh nhi (khoảng 4 tuổi) được gia đình đưa tới BV trong tình trạng sốt cao, lừ đừ và co giật. Bệnh diễn tiến khá nhanh và bé đã tử vong. Ngay sau đó, gia đình bệnh nhi đã làm đơn kiện chúng tôi. Tận mắt chứng kiến nhiều đứa trẻ đột ngột ra đi, tôi thật sự rất đau lòng. Lúc đó tôi quyết định phải mổ xẻ căn bệnh này và tìm cách giữ lại mạng sống cho các bệnh nhi. Sau nhiều tháng đọc các tài liệu y khoa của thế giới, tôi mới biết đây là bệnh tay chân miệng. Bệnh này đã xuất hiện ở một số nước. Khi đã gọi đúng tên của bệnh thì việc chữa trị cũng không còn khó khăn như trước đây”.
Quả đúng vậy. Tỷ lệ trẻ mắc bệnh tay chân miệng tử vong đã giảm đáng kể. Chỉ riêng TP.HCM, năm 2007 có 3.461 ca mắc thì có tới 16 ca tử vong (chiếm 0,46%); năm 2008, số ca mắc là 3.496 ca, tử vong giảm còn 9 ca (chiếm 0,26%); năm 2009, ca mắc là 3.580, tử vong – 5 ca (chiếm 0,14%); năm 2010, ca mắc – 3.621, tử vong – 1 ca (chiếm 0,03%)…
Riêng bác sĩ Khanh, anh không còn nhớ mình đã giành giật lại sự sống cho bao nhiêu bệnh nhi mắc bệnh tay chân miệng. Anh chỉ nhớ có rất nhiều bệnh nhi đã nhoẻn miệng cười khi được xuất viện. Còn các ông bố, bà mẹ thì rưng rưng nước mắt, nghẹn ngào nói không thành lời, dù đó chỉ là mấy tiếng “cám ơn bác sĩ”. Đó là những giây phút hạnh phúc mà nghề bác sĩ đã đem đến cho anh…
Năm 2011, khi bệnh tay chân miệng trở thành đại dịch không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều nước trong khu vực, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã mời anh tham gia viết phác đồ điều trị căn bệnh này.
Đem sự sống về với trẻ nhiễm HIV
Vào những năm cuối thập niên 1990, cũng như cả nước, tại TP.HCM, rất nhiều trẻ em nhiễm HIV đã chết. Thời điểm này, BV Nhi đồng I là cơ sở y tế công lập duy nhất ở khu vực phía Nam tiếp nhận những trẻ bị nhiễm HIV. Nhiều trẻ, sau khi được mẹ sinh ra từ BV Từ Dũ, BV Hùng Vương đã được chuyển qua Khoa Nhiễm – Thần kinh, BV Nhi đồng I để điều trị.
Lúc đó, với cương vị là Trưởng khoa Nhiễm – Thần kinh, bác sĩ Khanh đã không ít lần nghe những lời “bàn ra, tán vào” của bạn bè. Mọi người nói với anh: “Mấy đứa đó trước sau gì cũng chết, khả năng lây nhiễm HIV cho người khác cao và chưa làm ra tiền, chữa trị làm gì”… Song, anh bỏ ngoài tai tất cả. Vì theo anh, bỏ mặc trẻ nhiễm HIV mà không chữa trị là vô lý. “Dù sao các em cũng là nạn nhân, lây từ mẹ sang. Vả lại, ở nước ngoài, người ta cũng đã chữa trị được cho trẻ em bị nhiễm HIV”, bác sĩ Khanh nhớ lại.
Và khi anh giang tay ôm những đứa trẻ bất hạnh này vào lòng cũng là lúc thần chết dần rời xa các em. Đến nay, có nhiều trẻ đã được 16-17 tuổi.
Bác sĩ Khanh cho biết “Trước đây, nhiều người cứ nghĩ rằng trẻ có H không thể sống qua 10 tuổi. Nhưng thực tế, sau khi được điều trị bằng thuốc ARV cùng với chế độ dinh dưỡng hợp lý, trẻ có H sống khá tốt. Vấn đề của trẻ có H bây giờ là làm sao để ngăn được sự kỳ thị và phân biệt đối xử của mọi người đối với các em”.
Khoa nhiễm – thần kinh không chỉ tiếp nhận các bệnh nhi bị bệnh tay chân miệng, nhiễm HIV mà còn điều trị cho những trẻ mắc các bệnh truyền nhiễm khác như quai bị, rubella, cúm A/H1N1, viêm màng não, nhiễm não mô cầu… Nói chung, đây là nơi tập trung của những bệnh dễ lây nhiễm. Có lẽ vì vậy mà không ít bác sĩ sau khi ra trường đã không dám vào đây làm việc.
Còn với bác sĩ Khanh thì: “Ngay từ khi còn ngồi trên ghế Trường ĐH Y dược TP.HCM, tôi đã rất thích chuyên ngành nhiễm. Bởi tôi tin bệnh nhiễm có thể chữa hết. Và hơn 20 năm qua, tôi luôn cố gắng để chữa lành bệnh cho các bệnh nhi”.
Làm dâu trăm họ
Hồi nhỏ anh không thể hình dung ra nghề bác sĩ thì phải làm gì và chưa từng có ý nghĩ sẽ làm nghề này. Năm 1982, một người bạn rủ anh thi vào Trường ĐH Y dược, thế là anh thi. Học hết năm thứ nhất, thứ hai đại học mà anh vẫn không hình dung ra làm bác sĩ là làm gì. “Mãi đến năm thứ tư, tôi mới lờ mờ nhận ra công việc của một bác sĩ”, anh nhớ lại.
Rồi đến khi ra trường, đi làm, trực tiếp điều trị cho các bệnh nhi, chứng kiến 1.001 chuyện xảy ra mỗi ngày ở BV, anh nhận ra rằng: Công việc của một bác sĩ không chỉ đơn giản là chữa bệnh cứu người.
Khác với BV dành cho người lớn, BV nhi phức tạp hơn nhiều. Một đứa trẻ bệnh thường kèm thêm 2-3 người lớn đi cùng. Bởi vậy, vào mùa cao điểm của dịch bệnh, khoa nhiễm – thần kinh lúc nào cũng chật cứng người. Người nằm, kẻ ngồi la liệt từ phòng bệnh ra tới hành lang, cầu thang. Và kèm theo những con người này là tiếng la, tiếng khóc, thậm chí cả tiếng chửi bới. Tất cả cũng chỉ vì “của đau, con xót”. Thấy con mình nằm điều trị 2-3 ngày mà vẫn chưa được xuất viện, nhiều phụ huynh nóng ruột, thế là đi hỏi bác sĩ. Vợ hỏi vừa xong thì chồng lại chạy tới hỏi, rồi đến ông, bà, cô, cậu. Trong khi đó, có cả núi công việc đang chờ đợi bác sĩ. Bởi vậy, làm bác sĩ phải có “tinh thần thép”, nếu không sẽ rất dễ nổi quạu trong những lúc như thế này.
“Quan trọng nhất của ngành y, không phải là đam mê. Vì đam mê thì chỉ làm những gì mình thích, trong khi nghề y không cho phép như vậy. Làm bác sĩ là phải làm hết trách nhiệm – chỉ có làm hết trách nhiệm thì mới khám kỹ, mới chịu học hỏi để có nhiều kinh nghiệm chữa trị. Và đặc biệt là thông cảm, thấu hiểu cho những phút giây nóng giận của người nhà bệnh nhân. Thực tế, khi vào cao điểm của dịch bệnh, mệt mỏi nên bác sĩ cũng không thể tươi cười mãi được. Thấy vậy, người nhà bệnh nhân nói: “Bác sĩ không biết cười à”. Lúc mình cười, họ lại nói: “Con tôi bệnh sắp chết mà bác sĩ vẫn còn cười được sao”. Đôi lúc, họ còn chửi bới bác sĩ. Nhưng khi con họ được chữa khỏi, họ tới xin lỗi. Chỉ vậy thôi, với chúng tôi cũng đã là đủ…”.
Bài, ảnh: Hòa Triều


Bình luận (0)