|
Tranh thủ giờ nghỉ, anh Phước gọi điện thăm hỏi vợ con
|
Nhắc đến kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, ắt hẳn nhiều người nghĩ đến con kênh nước đen ngòm sặc mùi tanh hôi… Thế nhưng, hiện nay nước kênh đã xanh trong hơn. Sự thay đổi lớn ấy không thể không nhắc đến những con người ngày đêm âm thầm làm đẹp dòng kênh.
Vì dòng kênh xanh
Chiều ngả bóng, chúng tôi men theo kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè tìm gặp công nhân nạo vét để nghe họ chia sẻ về công việc cũng như cảm xúc về sự đổi thay của con kênh. Chúng tôi leo xuống chiếc ghe máy nhỏ của đơn vị thực hiện nạo vét cải tạo kênh. Anh công nhân tên Phước, quê Long An vui mừng đón khách xuống ghe. Anh Phước là công nhân nạo vét, kiêm thợ máy sống và làm trên ghe, sà lan từ con kênh này đến con rạch khác. Từ ngày đầu tiên anh đặt chân xuống sà lan chở bùn đến nay đã tròm trèm 20 năm. Gắn bó với công việc này trong suốt thời gian dài không đơn giản chỉ vì miếng cơm manh áo mà còn vì tình yêu dành cho con kênh. Anh Phước chia sẻ: “Con kênh xanh trong từng ngày lòng tôi cũng cảm thấy nhẹ tênh như vừa làm được điều gì có ích. Tôi tự hào vì đã góp một phần công sức trong việc cải tạo dòng kênh đem lại môi trường trong lành cho thành phố”. Anh Phước cho biết, những ngày đầu làm việc ở kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, không riêng gì anh mà nhiều công nhân khác thường xuyên đổ bệnh đến bỏ ăn chỉ vì mùi tanh hôi từ kênh. Không ít công nhân đã bỏ việc ngay từ ngày đầu. Anh Phước nói thật như đùa: “Chỉ vài ngày sau là quen mùi, hôm nào có việc lên bờ, thiếu cái mùi ấy là khó ngủ”.
Chúng tôi ngược về hướng Cầu Bông, đoạn chạy qua P.Tân Định, Q.1, nhóm công nhân nạo vét tại chân cầu này vừa xong bữa cơm chiều trên sà lan. Biết chúng tôi có ý định ra sà lan, anh công nhân tên Hải cho người nổ máy để sà lan cập sát. Trên sà lan, khó mà tìm ra chỗ nào không có bùn, đất và dầu máy. Anh Hải nói: “Chú em thông cảm, nghề nghiệp chúng tôi là vậy. Chỗ ngủ có bùn mới là dân nạo vét đích thực”. Công nhân nạo vét làm việc không theo giờ giấc cố định mà phụ thuộc theo con nước lên, xuống. Do đặc thù công việc, việc nạo vét chỉ thực hiện khi nước xuống, nước lên anh em phải nằm chờ. “Có hôm 1, 2 giờ sáng công nhân phải làm việc”, anh Hải cho biết. Có chứng kiến cảnh sinh hoạt, làm việc của công nhân nạo vét mới thấy hết nỗi vất vả, thiếu thốn. Đêm đến, 4, 5 công nhân nằm chen chúc ở mũi sà lan, kể cho nhau nghe chuyện gia đình, chuyện đời rồi chìm vào giấc ngủ. Trời mưa lớn thì che tấm bạt dã chiến, nằm đó đợi trời sáng. Trên ghe, sà lan có nhiều cái không: Không điện, không truyền hình… nên phương tiện giải trí của công nhân không gì khác ngoài chiếc radio bỏ túi hay chiếc điện thoại di động. Thỉnh thoảng, anh em đi chợ mang về tờ báo, chia nhau đọc trước lúc đi ngủ. Muỗi là nỗi ám ảnh kinh hoàng. Hôm nào trời đứng gió, công nhân phải đốt đèn ăn cơm trong mùng. Khổ nhất là nước sạch, hôm nào ghe không vào được thì phải xin hoặc mua từng can…
Vui buồn với nghề
Khi được hỏi về những vui buồn trong công việc, anh Hải chia sẻ: “Vui là vì con kênh đã xanh trở lại. Mai này, người dân đi qua đây sẽ không còn phải đưa tay bịt mũi hay lắc đầu cám cảnh mà là những cái gật đầu mãn nguyện”. Giọng anh Hải đầy lạc quan nhưng tôi vẫn thấy trong mắt anh còn chất chứa ưu tư. Có thể nỗi niềm gì đó trong anh chưa giải tỏa được. Anh tiếp: “Ý thức của một bộ phận nhỏ người dân còn thấp. Họ luôn miệng kêu ca kênh ngày một nặng mùi nhưng chính họ lại là kẻ vứt rác xuống kênh”.
“Hôm ấy, toán công nhân nạo vét kết thúc sau 2 giờ sáng. Anh em mệt nên ai cũng ngủ say. Đến gần 5 giờ, tôi lồm cồm dậy nấu nước pha trà thì phát hiện hai ống kim tiêm còn dính đầy máu đỏ tươi nằm cách chân trái chừng nửa gang tay. Cũng may tôi có thói quen ngủ không lăn, không trồi lên trụt xuống chứ nếu không… Thời gian đầu, sà lan cập sát để tiện anh em đi lại nhưng về khuya, các con nghiện lại tụ tập xuống sà lan tiêm chích. Tôi có phát hiện cũng phải giả vờ ngủ say, không dám lên tiếng vì sợ chúng trả thù. Sau rút kinh nghiệm cho neo đậu cách bờ từ 5-7m. Có việc vào bờ đột xuất lúc nửa đêm thì nổ máy, nước cạn phải lội”, anh Hải kể.
Còn anh Phước thì tâm sự: “Những hôm làm gấp rút cho kịp tiến độ không có thời gian nấu ăn, anh em kéo nhau ra quán ăn cho xong bữa. Thấy tay chân, quần áo bùn đất lấm lem, không ít người ái ngại chẳng dám ngồi gần, thậm chí chủ cũng không muốn bán. Nhưng cũng có người tốt bụng, hiểu được công việc khó nhọc của chúng tôi nên thường xuyên thăm hỏi, cứ đến giờ sà lan cập bến là mang trái cây, bánh ngọt và chở nước sạch đến cho…”.
Bài, ảnh: Trần Tuy An
| Kiêm luôn vai trò thợ máy nên dù máy móc đang hoạt động tốt, anh Phước cũng phải có mặt tại chỗ. Vì thế, nhà cách thành phố chỉ hơn một giờ đi xe máy nhưng đến 4 tháng, có khi cả năm anh Phước mới được về nhà một lần. |


Bình luận (0)