|
Bà Cúc xúc động đọc lại những dòng thơ của người chồng tặng trong đêm tân hôn
|
Trong những năm tháng Mỹ tăng cường kiểm soát Đà Nẵng, để có thể hoạt động một cách hợp pháp, tránh sự nhòm ngó của kẻ địch, bảo vệ mạng lưới cơ sở vững chắc, chuẩn bị thời cơ đánh đuổi kẻ thù giải phóng quê hương, bà Cúc đã chấp hành một nhiệm vụ “đặc biệt”, có một không hai của cấp trên: Nhiệm vụ lấy chồng!
Đám cưới đặc biệt
Năm 1957, tình hình ngày càng căng thẳng. Nhiều đồng chí hoạt động cách mạng bị bắt. Bọn địch ráo riết lùng sục, đánh hơi để bắt bớ những ai chúng nghi theo Cộng sản. Năm đó, Trần Thị Kim Cúc cũng mới 15 tuổi. Cái tuổi mà theo như ông bà ta thường nói “ăn chưa no, lo chưa tới”, chưa hiểu gì về cuộc sống hôn nhân bỗng dưng được lệnh lấy chồng để bảo toàn bí mật hoạt động. Bây giờ, ở vào cái tuổi thất thập cổ lai hy, bà Cúc vẫn không thể nào quên giây phút nhận thư của cấp trên gửi mình, động viên bà về việc kết hôn với một người đồng đội: “Mong cháu thật thông cảm cho hoạt động bí mật của chúng ta, không còn cách nào khác bằng cách đánh lạc hướng đối phương, mong cháu vui lòng chấp hành nhiệm vụ”. Bà Cúc cười e thẹn. “Hồi đó tui coi anh Tám như anh ruột của mình. Hàng ngày đụng mặt anh để trình bày tình hình nắm được, giao thư của các chú cán bộ hoặc theo anh học chữ tui đều vô tư chạy nhảy. Chớ có ai ngờ là các chú đã nhắm ảnh làm chồng tui mô”.
Một lễ hứa hôn đặc biệt của đôi uyên ương đồng thời cũng chính là đồng đội của nhau trên chiến tuyến chống Mỹ có sự chứng kiến của cấp trên diễn ra vào tối 27-1-1957 tại một vườn cây xanh có tên vườn Thị. Cô dâu không áo cưới, chú rể mặc bộ bà ba màu nâu sồng, họ e thẹn đứng nép bên nhau nghe lời chúc phúc, dặn dò từ đồng đội. Quà cưới họ nhận được cũng thật đặc biệt, đó là hai chiếc huy hiệu Đoàn và cuốn sách Thép đã tôi thế đấy. Vài tháng sau đó, bà Cúc lên xe hoa về nhà chồng trong sự ngỡ ngàng của bàn dân thiên hạ, nhất là bọn lính ngụy, tề gian ngày đêm nhăm nhăm vào bà chờ cơ hội tống tên Cộng sản mật vào nhà lao: “Hèn chi bọn hắn đi với nhau mà mình cứ tưởng…”.
Gian khổ chung một chiến hào
Với đôi uyên ương này, ngay từ giây phút hứa hôn đầy thiêng liêng trước đó, lời thề không phản bội lý tưởng và tình yêu, “hạnh phúc gia đình nằm trong hạnh phúc dân tộc” đã in sâu trong kí ức của hai con người có hoàn cảnh khác biệt về sự giàu nghèo kinh tế nhưng cùng chung lý tưởng đánh giặc, giải phóng quê hương. Ngừng một lúc, bà Cúc đưa tay lật giở cuốn sổ cũ mèm có nhiều trang giấy dó úa màu với những nét chữ viết bằng mực Hồng Hà, bà bảo đây là bài thơ ông ấy tặng bà trong đêm tân hôn. Bằng chất giọng ươn ướt, bà chậm rãi đọc: “Em biết thương dân tộc, yêu kiếp sống nghèo nàn/ Anh quyết chí thương em vì tình ta nhất trí…”. “Sau khi trao tặng tui bài thơ này, ông ấy nắm chặt bàn tay tui nói: Bàn tay em sẽ vun hạnh phúc cho anh hăng say hoạt động cách mạng”. Câu nói của anh đã xua tan mọi sự ngại ngùng, e thẹn của buổi đầu làm dâu. Kể từ khi trở thành vợ chồng, hai người chiến sĩ ấy đã cùng chung tâm sức một lòng hoạt động cách mạng. Nhiều lúc cận kề sự hi sinh, họ vẫn bình tĩnh vượt qua. Tuy nhiên, dù khéo léo đến mấy, hai vợ chồng bà vẫn luôn nằm trong tầm ngắm tình nghi của bọn tề gian. Trong vai trò là Đội trưởng Đội công tác đặc biệt, bà Cúc mở rộng địa bàn hoạt động trên toàn phạm vi thành phố. Còn ông Tám vẫn tiếp tục nhiệm vụ bắt liên lạc, kết nối đường dây chờ thời cơ giải phóng và tìm sơ hở của địch để diệt. Nhưng rồi bị bại lộ, ông bị bắt đi quân dịch, đi học “lớp tố Cộng”, lớp “đứng đèn tố Cộng” rồi lại bị đưa vô tận Sài Gòn học y sĩ… Do có thai đứa con đầu lòng, đường dây của tổ chức chịu tổn thất không ít do nhiều đồng chí cùng hoạt động bị bắt, hi sinh khiến cho công tác hoạt động của bà càng khó khăn, vất vả hơn. Không được gia đình chồng yêu thương lại thêm tiếng “rủ rê” chồng vào chốn khổ cực, nhiều lần bà ngậm đắng nuốt cay nghe lời bàn ra tán vào. “Hồi nớ, đang lúc mang thai mà bị bắt tra tấn trong khi chồng cũng bị bắt theo giặc, cực không kể hết. Nhưng nhờ sự động viên và đồng ý của các chú cấp trên, tui yên tâm phần nào. Sau khi mãn hạn trở về, anh Tám vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng làm tui thấy sung sướng hơn được ở nhà lầu”.
Câu chuyện đang hồi trầm lặng bởi những khó khăn mà vợ chồng bà cùng đồng đội phải trải qua, bỗng gương mặt bà Cúc rạng rỡ hẳn lên, giọng hào sảng. Trong kí ức cả quãng đời sát cánh cùng chồng chiến đấu, bà vẫn còn nhớ rõ mồn một ánh mắt vui mừng của chồng ngày đến phiên chợ sớm gặp bà đưa tin tên Quý – một tên ác ôn khét tiếng ở huyện Hòa Vang đã bị vợ chồng bà cùng đồng đội mật phục tiêu diệt hôm trước đó. Bà kể: “Những hôm nhà mẹ tui bị giặc đốt, anh Tám trở về cần mẫn chặt từng cái cây rồi hì hụi dựng lại nhà cho mẹ. Sau cả tháng trời, mái nhà mới được dựng lên từ đôi bàn tay ứa máu của anh, anh ôm tôi rồi nói, từ giờ mình ở với mẹ, vừa hoạt động cách mạng vừa chăm mẹ dễ dàng hơn. Mãi cho đến sau này, tui vẫn cám ơn các chú đã tác thành duyên nợ cho vợ chồng tui”.
Tình yêu của chồng đã trở thành động lực giúp bà Cúc hăng say hoạt động, cho đến giây phút đối mặt bốn bức tường ngục giam tăm tối cùng những trận đòn bán thân bất toại. Nhưng khi tỉnh dậy lòng căm thù giặc như tăng lên gấp bội, qua những dòng thơ tuôn trào nhiệt huyết.n
Bài, ảnh: Phan Vĩnh Yên
Kỳ 3: Đòn roi không khuất phục được chí căm thù


Bình luận (0)