Y tế - Văn hóaSức khỏe đời sống

Đái dầm ở trẻ trên 5 tuổi: Có thể chữa khỏi

Tạp Chí Giáo Dục

Những nguyên nhân chính gây đái dầm ở trẻ em trên 5 tuổi (ảnh: BS. Từ Thành Trí Dũng cung cấp)
Em Nguyễn Văn Phong đã học lớp 9 rồi mà vẫn còn đái dầm. Đó là lý do em vẫn phải nằm chiếu lúc ngủ trong khi đứa em gái học lớp 5 được nằm nệm từ bé tới giờ. Phong không buồn chuyện đó bằng việc luôn bị cả nhà lên án vì cho rằng em là một đứa trẻ hư. Cho đến khi một BS quen mách rằng đó là một bệnh lý thì Phong mới được minh oan sau một thời gian dài lo sợ “tật xấu” của mình sẽ bị người khác chê cười.
Các nguyên nhân gây đái dầm
Theo TS.BS Từ Thành Trí Dũng, Bệnh viện ĐH Y dược TP.HCM, đái dầm là tình trạng tiểu không kiểm soát, xảy ra trong khi ngủ hoặc khi thức giấc hoặc cả hai, với tần suất ít nhất 2 lần mỗi tuần trong 3 tháng ở các trẻ đã đủ lớn (trên 5 tuổi), đủ nhận thức để kiểm soát việc đi tiểu. Theo đó, tình trạng đái dầm được chia thành ba loại: Đái dầm ban đêm (khi ngủ) hay gặp ở bé trai; đái dầm (hoặc són tiểu) ban ngày (cả khi ngủ hoặc khi thức giấc) hay gặp ở bé gái; đái dầm cả ngày lẫn đêm.
Ngoài ra, bệnh này cũng có thể phân thành: Đái dầm nguyên phát, đây là loại thường gặp, chiếm khoảng 75-80%, xuất hiện từ khi trẻ còn nhỏ, đặc biệt đối với những trẻ mà việc tập kiểm soát tiểu tiện chưa bao giờ thành công. Đái dầm thứ phát, xuất hiện sau thời gian trên 6 tháng không còn bị đái dầm (đã đạt được sự kiểm soát việc đi tiểu), bỗng nhiên lại bị đái dầm trở lại do tác động của một nguyên nhân khác.
Nói về nguyên nhân của tình trạng này, trước tiên theo BS. Dũng là do yếu tố di truyền. Nếu trẻ có bố hoặc mẹ bị đái dầm lúc nhỏ thì thường có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn những trẻ khác. Trong trường hợp nếu cả bố và mẹ bị đái dầm lúc nhỏ thì 68% con cái có khả năng bị đái dầm. Hoặc nếu chỉ có bố hay mẹ bị đái dầm, thì 44% con cái bị đái dầm.
Bên cạnh yếu tố di truyền, còn có các nguyên nhân khác cần lưu ý: Thiếu nội tiết tố kháng bài niệu về đêm (đây là nội tiết tố có tác dụng làm hấp thu nước ở thận. Vì lý do nào đó, nội tiết tố này bị giảm sẽ làm thận tăng sản xuất một lượng lớn nước tiểu trong khi ngủ); rối loạn chức năng của bàng quang (dung tích bàng quang nhỏ nên chứa ít nước tiểu hoặc cơ chóp bàng quang tăng hoạt động và co bóp quá mức gây đái dầm). Rối loạn phản xạ “thức giấc để đi tiểu” (ở một số trẻ bị đái dầm, sự kết hợp các “tín hiệu” giữa bàng quang và não chưa nhịp nhàng, không đúng và không đủ. Trẻ bị đái dầm thường ngủ rất say, bàng quang căng đầy nước tiểu nhưng không đủ kích thích để đánh thức trẻ dậy đi tiểu); thói quen ăn uống (một số trẻ thường uống một lượng nước rất nhiều hoặc dùng các chất kích thích như trà, cà phê… vào buổi chiều tối); tâm trạng lo lắng (do bị cha mẹ trách phạt, hoàn cảnh sống không tốt, mẹ mới sinh em bé)… Theo BS. Dũng, đa số trẻ đái dầm không bị một rối loạn tâm thần nào khác. Tuy nhiên, hầu hết trẻ bị đái dầm thường thấy xấu hổ và cảm thấy có lỗi với gia đình, có thể dẫn đến tự ti, gây căng thẳng cho gia đình, sống khép kín và giảm khả năng hòa nhập với cộng đồng.
Đái dầm có thể chữa khỏi
Nên cho trẻ trên 5 tuổi điều trị sớm
BS. Dũng lưu ý, mỗi năm có 15% trẻ bị đái dầm sẽ tự khỏi, nhưng 1% trẻ 15 tuổi vẫn còn đái dầm. Tuy nhiên, các bậc phụ huynh nên cho trẻ trên 5 tuổi điều trị sớm vì nếu để lâu sẽ khó điều trị và ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ.
Trong trường hợp nếu trẻ dưới 5 tuổi mà bị đái dầm thì phụ huynh không cần làm gì khác ngoài việc tránh cho trẻ uống nhiều nước vào buổi tối và đánh thức trẻ dậy đi tiểu trước khi phụ huynh đi ngủ. Đối với trường hợp trẻ trên 5 tuổi bị đái dầm, phụ huynh không nên chọc ghẹo, la mắng hay trách phạt trẻ vì đây không phải là lỗi của con. Ngược lại cần giải thích cho con biết rằng có nhiều trẻ khác cũng gặp vấn đề tương tự, để trẻ không thấy bị lẻ loi, đơn độc. Phụ huynh cũng rất cần khích lệ con trẻ thường xuyên, cần khen thưởng nếu có đêm trẻ không bị đái dầm và trấn an con rằng bệnh này có thể chữa khỏi.
Bên cạnh đó, phụ huynh cũng cần lưu ý một số việc sau: Cần lập thời khóa biểu về thời gian đi tiểu và uống nước, nhắc nhở trẻ đi tiểu trước khi ngủ; hạn chế cho trẻ uống sữa, nước, các chất lỏng vào buổi chiều tối; mở đèn nhà vệ sinh vào ban đêm hoặc cho con dùng bô nếu nhà vệ sinh xa phòng ngủ của trẻ; hướng dẫn trẻ tự dọn dẹp giường mỗi sáng khi thức giấc; không nên cho trẻ trên 5 tuổi mang tã khi ngủ vì điều này sẽ làm trẻ mất tự tin, tập thói quen xấu cho trẻ và biện pháp sau cùng là tập luyện bàng quang cho trẻ bằng cách hướng dẫn con chủ động nín giữ nước tiểu lâu hơn, tập tiểu ngắt quãng (khi đang đi tiểu thì cố gắng ngưng lại một chút rồi lại tiểu tiếp).
Bích Vân
Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về bệnh lý đái dầm, TS.BS Huỳnh Thoại Loan, Trưởng khoa Thận – Nội tiết, Bệnh viện Nhi đồng 1 và TS.BS Từ Thành Trí Dũng, Trưởng khoa Nam học, Bệnh viện ĐH Y dược sẽ tư vấn cho độc giả nhiều thông tin hữu ích và cách điều trị trên website VNExpress.net, chuyên mục đời sống/sức khỏe. Thời gian từ 14-16 giờ ngày 12-3-2014.
N.Trinh
 
 

Bình luận (0)