Nội dung của tài liệu và sách giáo khoa của các ngành nhân văn, vốn đa số rất cũ kỹ, thiếu cập nhật. Các tài liệu này thường chỉ chấp nhận quan điểm được xem là chính thống, rất hiếm thấy cái nhìn đa chiều…
Một số nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của khối C hầu như chưa được đề cập đến, đó là: nội dung chương trình, cách tổ chức giảng dạy, và cách giảng dạy và học tập của khối ngành nhân văn.
Sự xuống dốc của khối ngành nhân văn ở Việt Nam đã kéo dài nhiều năm trong đó có nguyên nhân khách quan là những sinh viên tốt nghiệp ngành này khó kiếm việc làm; nếu may mắn có việc cũng thường được trả lương khá thấp so với nhiều ngành khác. Với nhiều người, đây là lỗi của nhà tuyển dụng vì chỉ chăm chăm tuyển người để dùng ngay nên không đánh giá cao những người tốt nghiệp các ngành nhân văn; hoặc là lỗi của thí sinh và gia đình vì chỉ thích chọn những ngành giúp họ có thu nhập cao, một biểu hiện của lối sống thực dụng đang lên ngôi (!) như ai đó đã từng nói, còn có một số nguyên nhân hầu như chưa mấy được đề cập đến đó là: nội dung chương trình, cách tổ chức giảng dạy, và cách giảng dạy và học tập của khối ngành nhân văn đã dẫn đến sự “tẩy chay” của người học và của toàn xã hội?
Một trong những tiêu chí khách quan của nhà tuyển dụng đối với mọi sinh viên tốt nghiệp khi bắt đầu bước vào thị trường lao động là trình độ ngoại ngữ, cụ thể là trình độ tiếng Anh trong thời đại hiện nay. Khả năng ngoại ngữ vốn phải là một thế mạnh của những người hoạt động trong khối ngành nhân văn, vì hơn ai hết, họ cần có một ngoại ngữ phổ biến làm công cụ giúp họ hiểu biết về những gì đang diễn ra trên thế giới, trao đổi và tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp và các nhà tư tưởng lớn, hay tự mình đi sâu vào kho tàng giá trị tinh thần đã được tích lũy từ nhiều đời trước và truyền lại cho đời sau. Thông thạo ngoại ngữ, thậm chí không chỉ một ngoại ngữ mà là nhiều ngoại ngữ, đó cũng là một dấu ấn riêng biệt và đậm nét của những người hoạt động trong lĩnh vực xã hội và nhân văn của một vài thế hệ trước ở Việt Nam.
Nhưng ngày nay thì điều này không còn đúng. Dù có những ngoại lệ, nhưng nhìn chung những người tốt nghiệp đại học ở một ngành nhân văn thường có trình độ ngoại ngữ kém nhất. Kém ngoại ngữ trong một thời đại tri thức và hội nhập toàn cầu, khi mọi thay đổi đang diễn ra thần tốc hằng ngày, khi tri thức của nhân loại chỉ sau vài năm lại tăng lên gấp đôi; liệu những người với năng lực như vậy có khả năng tự học, khả năng học tập suốt đời để đáp ứng nhu cầu cập nhật của chính bản thân, và đóng góp vào sự phát triển của xã hội?
Một năng lực quan trọng khác của thị trường lao động ngày nay là năng lực về công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin-truyền thông nhằm phục vụ hữu hiệu nhất cho nghề nghiệp của mình. Hiện nay ở Việt Nam, không kể những ngoại lệ hiếm có, những người tốt nghiệp đại học các ngành thuộc khối C thường được xem là những người có trình độ sử dụng công nghệ kém nhất.
Trong khi đó trên thế giới, khối ngành nhân văn đang là một lĩnh vực ứng dụng quan trọng để tiếp nhận các thành tựu mới nhất của công nghệ thông tin-truyền thông, cả phần mềm lẫn phần cứng. Bất kỳ một nhà sử học, nhà khảo cổ học hoặc nhà nghiên cứu văn học/văn hóa nào khi tiếp cận với một văn bản cũng có thể cần sử dụng các kho ngữ liệu trực tuyến (online corpora) hoặc các phần mềm phức tạp để tìm hiểu các ẩn ý của từ ngữ trong văn bản, so sánh các dị bản khác nhau để tìm ra bản gốc, hoặc xác định văn phong xem nó có khả năng là một tác phẩm chưa công bố của một tác giả quá cố nào đó. Nhà báo khi tác nghiệp có thể cần sử dụng bút thông minh (smartpen) để vừa ghi chép vừa ghi âm và sau đó chia sẻ pencast cho đồng nghiệp; cần sử dụng các công cụ trực tuyến như trang Evernote để lưu lại và tổng hợp mọi ghi chép, tài liệu bằng hình, video, email, web links mọi lúc, mọi nơi; cần tham gia các mạng xã hội để tạo quan hệ và nắm thông tin; cần tương tác với độc giả trên từng bài viết; cần có blog cá nhân để nối dài những ý tưởng cho mục mà mình phụ trách trên tờ báo giấy, vốn luôn có phiên bản trực tuyến kèm theo. Danh sách trên mới chỉ là một số ví dụ gần gũi mà ai cũng biết.
Trong một thế giới nơi công nghệ có vai trò then chốt như vậy, ngành nhân văn của Việt Nam đang trang bị gì cho người học?
Nội dung của tài liệu và sách giáo khoa của các ngành nhân văn, vốn đa số rất cũ kỹ, thiếu cập nhật. Các tài liệu này thường chỉ chấp nhận quan điểm được xem là chính thống, rất hiếm thấy cái nhìn đa chiều, không được nêu những vấn đề gây tranh luận, và hoàn toàn không xuất hiện những quan điểm trái chiều. Về hình thức, các tài liệu đa số được trình bày khô khan dày đặc chữ, ít chú trọng đến khía cạnh thẩm mỹ, rất ít hình ảnh và màu sắc. Hầu như tất cả các tài liệu và sách giáo khoa ấy không bao giờ có các đĩa CD-ROM hoặc trang web hỗ trợ kèm theo, mặc dù đó là chuẩn mực xuất bản của sách giáo khoa trên thế giới. Nhìn tài liệu học tập của các ngành nhân văn ở Việt Nam ta nghĩ đến những sản phẩm của cách đây vài chục năm khi thế giới chưa từng biết đến cuộc cách mạng số.
Về giảng dạy, nhìn chung các lớp học tại Việt Nam vẫn đang được giảng dạy theo phương pháp hoàn toàn truyền thống, vẫn sách giáo khoa hoặc tài liệu chính thức của nhà trường in sẵn trên giấy (mà có khi được người học cũng chẳng đụng đến), vẫn thầy đọc trò chép hoặc khá hơn là thầy nói-chiếu (powerpoint) còn trò thì vẫn chép, vẫn phương thức duy nhất là gặp mặt trực tiếp trên giảng đường, nơi tương tác thầy trò chủ yếu một chiều (từ thầy đến trò), nơi sự tranh luận giữa các học viên trong cùng một lớp về những vấn đề chuyên môn là vô cùng hãn hữu, và đừng nói đến việc giao lưu với bạn bè cùng ngành trong cả nước hoặc trên thế giới.
Có thể nói, sự lạc hậu về nội dung và phương pháp giảng dạy của các ngành nhân văn còn do chúng ta luôn cho rằng đối tượng nghiên cứu là những vấn đề đặc thù của Việt Nam; vì thế những cải cách theo trào lưu của thế giới thường được cho là không cần thiết.
Trong tình trạng như vậy, thử hỏi ngay cả khi có chính sách hỗ trợ người học, như miễn học phí, cấp học bổng tương tự như khối ngành sư phạm hiện nay, và bố trí việc làm sau khi tốt nghiệp, chúng ta có chắc rằng khối ngành nhân văn sẽ có đủ sức hấp dẫn để thu hút người học bỏ ra 4 năm trời để theo học hay không? Và ai có thể nói được với cách giảng dạy như thế thì sau 4 năm, người học sẽ được trang bị những gì để tham gia một cách hiệu quả vào đời sống hiện đại, đa cực và đầy biến động hiện nay?
Cần có những biện pháp để khôi phục các ngành nhân văn tại Việt Nam là một việc làm cần thiết, thậm chí khẩn cấp, để bảo đảm sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân và sự phát triển cân bằng, bền vững của toàn xã hội. Nhưng những giải pháp hỗ trợ từ bên ngoài chỉ có thể có tác dụng khi chính khối ngành nhân văn có khả năng tự cải thiện. Bằng không thì mọi giải pháp, mọi chính sách hỗ trợ từ bên ngoài cũng chỉ có tác dụng nhất thời, chắp vá. Để rồi mỗi năm, cứ vào mùa tuyển sinh, chúng ta lại tiếp tục được nghe điệp khúc than vãn về sự quay lưng của người học đối với khối C.
Nhưng ngày nay thì điều này không còn đúng. Dù có những ngoại lệ, nhưng nhìn chung những người tốt nghiệp đại học ở một ngành nhân văn thường có trình độ ngoại ngữ kém nhất. Kém ngoại ngữ trong một thời đại tri thức và hội nhập toàn cầu, khi mọi thay đổi đang diễn ra thần tốc hằng ngày, khi tri thức của nhân loại chỉ sau vài năm lại tăng lên gấp đôi; liệu những người với năng lực như vậy có khả năng tự học, khả năng học tập suốt đời để đáp ứng nhu cầu cập nhật của chính bản thân, và đóng góp vào sự phát triển của xã hội?
Một năng lực quan trọng khác của thị trường lao động ngày nay là năng lực về công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin-truyền thông nhằm phục vụ hữu hiệu nhất cho nghề nghiệp của mình. Hiện nay ở Việt Nam, không kể những ngoại lệ hiếm có, những người tốt nghiệp đại học các ngành thuộc khối C thường được xem là những người có trình độ sử dụng công nghệ kém nhất.
Trong khi đó trên thế giới, khối ngành nhân văn đang là một lĩnh vực ứng dụng quan trọng để tiếp nhận các thành tựu mới nhất của công nghệ thông tin-truyền thông, cả phần mềm lẫn phần cứng. Bất kỳ một nhà sử học, nhà khảo cổ học hoặc nhà nghiên cứu văn học/văn hóa nào khi tiếp cận với một văn bản cũng có thể cần sử dụng các kho ngữ liệu trực tuyến (online corpora) hoặc các phần mềm phức tạp để tìm hiểu các ẩn ý của từ ngữ trong văn bản, so sánh các dị bản khác nhau để tìm ra bản gốc, hoặc xác định văn phong xem nó có khả năng là một tác phẩm chưa công bố của một tác giả quá cố nào đó. Nhà báo khi tác nghiệp có thể cần sử dụng bút thông minh (smartpen) để vừa ghi chép vừa ghi âm và sau đó chia sẻ pencast cho đồng nghiệp; cần sử dụng các công cụ trực tuyến như trang Evernote để lưu lại và tổng hợp mọi ghi chép, tài liệu bằng hình, video, email, web links mọi lúc, mọi nơi; cần tham gia các mạng xã hội để tạo quan hệ và nắm thông tin; cần tương tác với độc giả trên từng bài viết; cần có blog cá nhân để nối dài những ý tưởng cho mục mà mình phụ trách trên tờ báo giấy, vốn luôn có phiên bản trực tuyến kèm theo. Danh sách trên mới chỉ là một số ví dụ gần gũi mà ai cũng biết.
Trong một thế giới nơi công nghệ có vai trò then chốt như vậy, ngành nhân văn của Việt Nam đang trang bị gì cho người học?
Nội dung của tài liệu và sách giáo khoa của các ngành nhân văn, vốn đa số rất cũ kỹ, thiếu cập nhật. Các tài liệu này thường chỉ chấp nhận quan điểm được xem là chính thống, rất hiếm thấy cái nhìn đa chiều, không được nêu những vấn đề gây tranh luận, và hoàn toàn không xuất hiện những quan điểm trái chiều. Về hình thức, các tài liệu đa số được trình bày khô khan dày đặc chữ, ít chú trọng đến khía cạnh thẩm mỹ, rất ít hình ảnh và màu sắc. Hầu như tất cả các tài liệu và sách giáo khoa ấy không bao giờ có các đĩa CD-ROM hoặc trang web hỗ trợ kèm theo, mặc dù đó là chuẩn mực xuất bản của sách giáo khoa trên thế giới. Nhìn tài liệu học tập của các ngành nhân văn ở Việt Nam ta nghĩ đến những sản phẩm của cách đây vài chục năm khi thế giới chưa từng biết đến cuộc cách mạng số.
Về giảng dạy, nhìn chung các lớp học tại Việt Nam vẫn đang được giảng dạy theo phương pháp hoàn toàn truyền thống, vẫn sách giáo khoa hoặc tài liệu chính thức của nhà trường in sẵn trên giấy (mà có khi được người học cũng chẳng đụng đến), vẫn thầy đọc trò chép hoặc khá hơn là thầy nói-chiếu (powerpoint) còn trò thì vẫn chép, vẫn phương thức duy nhất là gặp mặt trực tiếp trên giảng đường, nơi tương tác thầy trò chủ yếu một chiều (từ thầy đến trò), nơi sự tranh luận giữa các học viên trong cùng một lớp về những vấn đề chuyên môn là vô cùng hãn hữu, và đừng nói đến việc giao lưu với bạn bè cùng ngành trong cả nước hoặc trên thế giới.
Có thể nói, sự lạc hậu về nội dung và phương pháp giảng dạy của các ngành nhân văn còn do chúng ta luôn cho rằng đối tượng nghiên cứu là những vấn đề đặc thù của Việt Nam; vì thế những cải cách theo trào lưu của thế giới thường được cho là không cần thiết.
Trong tình trạng như vậy, thử hỏi ngay cả khi có chính sách hỗ trợ người học, như miễn học phí, cấp học bổng tương tự như khối ngành sư phạm hiện nay, và bố trí việc làm sau khi tốt nghiệp, chúng ta có chắc rằng khối ngành nhân văn sẽ có đủ sức hấp dẫn để thu hút người học bỏ ra 4 năm trời để theo học hay không? Và ai có thể nói được với cách giảng dạy như thế thì sau 4 năm, người học sẽ được trang bị những gì để tham gia một cách hiệu quả vào đời sống hiện đại, đa cực và đầy biến động hiện nay?
Cần có những biện pháp để khôi phục các ngành nhân văn tại Việt Nam là một việc làm cần thiết, thậm chí khẩn cấp, để bảo đảm sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân và sự phát triển cân bằng, bền vững của toàn xã hội. Nhưng những giải pháp hỗ trợ từ bên ngoài chỉ có thể có tác dụng khi chính khối ngành nhân văn có khả năng tự cải thiện. Bằng không thì mọi giải pháp, mọi chính sách hỗ trợ từ bên ngoài cũng chỉ có tác dụng nhất thời, chắp vá. Để rồi mỗi năm, cứ vào mùa tuyển sinh, chúng ta lại tiếp tục được nghe điệp khúc than vãn về sự quay lưng của người học đối với khối C.
theo Báo Mới
Tin liên quan
Trường THPT Mạc Đĩnh Chi lên tiếng về đề văn “lối sống phông bạt” 1 câu, 1 dòng gây tranh cãi
Trường THPT Mạc Đĩnh Chi (quận 6, TP.HCM) đã chính thức lên tiếng về đề kiểm tra ngữ văn giữa học kỳ...
Sở GD-ĐT TP.HCM đề xuất được chủ động chọn môn thi thứ 3 trong thi tuyển sinh 10
Sở GD-ĐT TP.HCM đề xuất Bộ GD-ĐT cho địa phương được chủ động chọn môn thi thứ 3 trong kỳ thi tuyển...
Giáo viên cần tăng cường dạy học tích hợp kỹ năng trong môn ngữ văn
Đề tham khảo môn ngữ văn thi tốt nghiệp THPT năm 2025 lần 2 vừa được Bộ GD-ĐT ban hành có nhiều...
Có 60 sở GD-ĐT đồng ý phương án 3 môn thi tuyển vào lớp 10
Theo Bộ GD-ĐT, 60/63 sở GD-ĐT trên cả nước đồng ý phương án 3 môn thi tuyển sinh vào lớp 10 và...
Bình luận (0)