Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Những soạn giả một thời vang bóng: Bài cuối: Nhớ mãi ngòi bút Trần Hữu Trang

Tạp Chí Giáo Dục

Cảnh trong vở Tô Ánh Nguyệt của soạn giả Trần Hữu Trang
Đã đúng 45 năm kể từ ngày ông khuất bóng nhưng tên tuổi, nhân cách và đặc biệt là những vở cải lương của ông như Tô Ánh Nguyệt, Lan và Điệp, Đời cô Lựu, Khi người điên biết yêu… vẫn sống mãi trong lòng của bao lớp thế hệ nghệ sĩ cũng như hàng triệu khán giả hâm mộ cải lương trong và ngoài nước. Ông chính là soạn giả Trần Hữu Trang.
Về xã Phú Kiết, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, hỏi nhà thờ cố soạn giả Trần Hữu Trang thì hầu như người dân nào cũng biết. Đây được xem là di tích văn hóa của tỉnh Tiền Giang nói riêng đồng thời là “cái nôi” cải lương đáng tự hào của người dân miền Tây. Tên của soạn giả Trần Hữu Trang được Nhà nước đặt tên cho một con đường, một ngôi trường ở TP.HCM hiện nay. Tên của ông còn được đặt tên cho Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang và giải thưởng Trần Hữu Trang – một giải thưởng lớn trong lĩnh vực cải lương. Ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Thành đồng và giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 (1996).
 Từ anh nông dân trở thành soạn giả
NSND Diệp Lang, người biểu diễn thành công vang dội hai vai diễn trong hai vở cải lương nổi tiếng nhất của soạn giả Trần Hữu Trang: Hội đồng Thăng (Đời cô Lựu) và ông Hương Cả ba của Nguyệt (Tô Ánh Nguyệt) cho biết: “Trong cuộc đời làm nghệ thuật, tôi có duyên với hai soạn giả là Điêu Huyền và Trần Hữu Trang. Tôi nghĩ nếu không có những vở tuồng của hai anh viết thì chưa chắc tên tuổi của tôi có được vị trí như ngày hôm nay…”.
Soạn giả Trần Hữu Trang (hay còn gọi là Tư Trang) sinh năm 1906 tại xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay là huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình nông dân nghèo. Cũng chính vì nhà nghèo mà ông phải nghỉ học nửa chừng làm đủ các nghề từ thợ hớt tóc, vác lúa, đến chèo ghe thuê để giúp đỡ gia đình. Dù công việc rất cực nhọc nhưng lúc nào rảnh là ông lại tham gia vào phong trào đờn ca tài tử của xã. Dịp may, có một đoàn hát đến địa phương biểu diễn, do quá mê cải lương nên ông lân la xin theo đoàn làm thư kí chép vở. Được soạn giả Mười Giảng hướng dẫn dạy dỗ cách viết tuồng, năm 1928, ông cho ra mắt kịch bản đầu tay Lửa đỏ lòng son. Đến năm 1930, tài năng nghệ thuật của ông bật sáng rực rỡ, các vở như Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt, Lan và Điệp, Tìm hạnh phúc, Mộng hoa vương, Chị chồng tôi, Tình lụy, Khi người điên biết yêu… không chỉ ăn khách trên các đoàn hát Trần Đắc, Năm Phỉ, Phụng Hảo, Năm Châu, Thanh Minh mà còn là những sáng tác xuất sắc của sân khấu cải lương trước Cách mạng.
Sau Cách mạng tháng 8-1945, ông hăng hái tham gia kháng chiến, thoát ly ra chiến khu Đồng Tháp Mười, rồi trở lại hoạt động trong tổ chức nội thành Sài Gòn núp dưới lớp vỏ của gánh hát “Con Tằm” chung với nghệ sĩ Năm Châu, Bảy Nhiêu. Năm 1960, ông được bầu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam, rồi làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã Phú Kiết. Ông mất ở chiến khu miền Đông trong một trận bom oanh tạc của Mỹ giữa lúc sự nghiệp sáng tác còn đang sung sức, để lại hơn 30 kịch bản “đóng mộc” thương hiệu Trần Hữu Trang mà bất kỳ nghệ sĩ cải lương nào cũng đều ao ước được một lần thể hiện nhân vật trong tác phẩm của ông.
Sức sống của những vở diễn để đời
GS-TS Trần Văn Khê cho biết: “Với tư cách là người đồng hương Tiền Giang, tôi rất trân trọng tài năng và nhân cách của anh Tư Trang. Tôi là người từng đi tha hương, từng khóc cười khi xem những vở của anh tại nước ngoài với lòng tự hào vô hạn. Có thể nói vở cải lương Đời cô Lựu là vở cải lương kinh điển mang dấu ấn đẳng cấp của Việt Nam…”.
Đời cô Lựu được Sân khấu Thanh Minh trình diễn năm 1958 với sự tham gia của các nghệ sĩ Phùng Há, Ba Vân, Út Trà Ôn, Hoàng Giang, Việt Hùng, Hữu Phước, Thanh Nga, hề Kim Quang đã tạo nên một làn sóng hâm mộ của khán giả. Vở được soạn giả Trần Hữu Trang viết năm 1937, kể về cuộc đời chìm nổi, số phận đau khổ của cô Lựu, một phụ nữ nghèo khổ dưới xã hội phong kiến, thực dân. Với nội dung giàu tính hiện thực phê phán, cốt truyện xây dựng theo môtip đặt nhân vật chính vào những đau khổ bất hạnh đầy tính éo le, ngang trái cùng các tình tiết tử biệt sinh ly đậm đà chất cải lương. Một thế hệ tiếp theo làm vang danh Nhà hát Trần Hữu Trang khi trình diễn vở này đến bây giờ không ai có thể thay thế là Bạch Tuyết, Thành Được, Thanh Tòng, Minh Vương, Lệ Thủy, Ngọc Giàu, Diệp Lang, Bảo Quốc… Năm 1984, vở đã gây chấn động ở Tây Âu khi đoàn nghệ sĩ này đã đến biểu diễn 71 suất cho 45.000 người xem. Vở Tô Ánh Nguyệt được dàn dựng đầu tiên trên Sân khấu Thanh Minh – Thanh Nga với Phùng Há, Ba Vân, Việt Hùng, Hoàng Giang, Ngọc Nuôi, Hữu Phước… đã “lấy” không biết bao nhiêu nước mắt của khán giả. Khi được đạo diễn – NSND Diệp Lang dàn dựng lại cho Đoàn 284 với Minh Vương, Lệ Thủy, Diệp Lang, Thanh Tòng, Tú Trinh, Hồng Nga, Nguyên Hạnh… đã “sống” suốt 4 năm dài, nhiều suất không có vé để bán. Năm 1936, soạn giả Trần Hữu Trang đã chuyển thể tác phẩm Hoa rơi của Phật thành kịch bản cải lương Lan và Điệp cho nghệ sĩ Năm Phỉ thủ vai chánh. Đến năm 1959, Đoàn Thanh Minh – Thanh Nga dàn dựng lại với Thanh Nga, Thành Được, Tám Vân, Thanh Loan, Bảo Quốc… thì vở lại càng có sức sống mãnh liệt hơn. Năm 1970, từ kịch bản của Trần Hữu Trang, hai soạn giả Loan Thảo và Thế Châu đã chuyển thể lại một lần nữa thành vở cải lương Chuyện tình Lan và Điệp, được Hãng đĩa Việt Nam thu thanh rồi trở thành bản ghi âm chuẩn mực nhất cho vở tuồng này tính đến hiện tại. Tham gia vở diễn là các giọng ca nổi tiếng như Chí Tâm, Thanh Kim Huệ, Tú Trinh, Hữu Phước, Hùng Minh, Mai Lan… Năm 2008, ca sĩ Minh Thuận gây tiếng vang lớn với vở cải lương này. Điểm đặc biệt là các vai diễn đều do các ca sĩ tân nhạc hát cải lương gồm Minh Thuận – Đàm Vĩnh Hưng (Điệp), Cẩm Ly – Phương Thanh (Lan), Thu Minh (Thúy Liễu), Hữu Bình (ông Tú), Trung Dân – Cát Phượng (ông bà Cử), Vũ Hà (bếp Sạc), Quốc Đại (chú tiểu)… Soạn giả Viễn Châu cho biết: “Những kịch bản của anh Trần Hữu Trang không thiên về tình yêu đôi lứa ướt át hay cảm hứng lãng mạn mà xoáy sâu trực diện vào hiện thực xã hội. Nó đã phơi bày số phận của người dân bất hạnh, đề cập đến bi kịch của tình yêu và hôn nhân trong hoàn cảnh xã hội đương thời. Do đó, thấm đượm giá trị tố cáo, vạch trần những tệ nạn cũng như sự thối nát của xã hội thuộc địa; lên tiếng bênh vực khát vọng giải phóng con người thoát khỏi mọi dây trói của lễ giáo, hủ tục, cũng như các bất công ngang trái. Tuy nhiên, nó không quá khô khan mà vẫn ẩn chứa cái trữ tình mượt mà của thể loại cải lương. Anh thật sự là một trong những soạn giả lớn của nghệ thuật cải lương Nam bộ…”.n
Bài, ảnh: Đặng Tiền Giang

“Chính vì trân trọng công ơn của soạn giả Trần Hữu Trang mà khi ngồi vào ghế Ban giám khảo giải thưởng Trần Hữu Trang, tôi luôn làm việc công tâm để tìm ra được những gương mặt thật sự xuất sắc xứng đáng với tên của anh. Và tôi tin rằng, ở trên trời, anh cũng rất vui khi nhìn thấy một thế hệ nghệ sĩ cải lương trưởng thành từ giải thưởng này…” NSND Diệp Lang cho biết.

 

Bình luận (0)