Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Kỷ niệm 36 năm ngày thống nhất đất nước (30-4-1975/ 30-4-2011): Kỳ 1: Cuộc hồi sinh từ trong lòng đất

Tạp Chí Giáo Dục

Nhà hộ sinh – sự sống nẩy mầm trong lòng địa đạo (ảnh tư liệu)

Có một thời kỳ trong lịch sử dân tộc, kẻ thù tìm mọi cách biến sự sống nơi mảnh đất địa đầu giới tuyến ở vĩ tuyến 17 (Vĩnh Linh, Quảng Trị) trở về “thời kỳ đồ đá”. Người dân nơi đây chỉ có đôi tay chai sần và cuốc xẻng thô sơ xẻ lòng đất để tìm sự trường tồn. Một cuộc hồi sinh bắt đầu trong lòng đất- nơi mặt đất chỉ cách vòm trời vỏn vẹn 1,8m…
Sự sống nảy mầm từ cái chết
Năm 1965, với việc dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ, đế quốc Mỹ bắt đầu mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không lực. Vĩnh Linh trở thành mục tiêu đánh phá hàng đầu. Mảnh đất địa đầu giới tuyến vỏn vẹn chưa đầy 820km2 phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ. Trong 8 năm, kẻ thù đã dội xuống nơi đây hơn nửa triệu tấn bom đạn. Bình quân, mỗi người dân gánh chịu 7 tấn.
Đế quốc Mỹ càng điên cuồng hủy diệt, tinh thần quyết thắng của quân, dân nơi đây càng bất khuất, kiên cường. Với khẩu hiệu “Một tấc không đi, một ly không rời”, “mỗi làng, xã là một pháo đài chiến đấu”, cả Vĩnh Linh rầm rộ tiến sâu vào lòng đất làm nên những công trình sáng tạo vĩ đại. Cuối năm 1963, đồng chí Trần Nam Trung (sau này là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) trên đường công tác từ Trung ương Cục miền Nam ra Bắc đã ghé thăm làng chiến đấu ở các xã vùng đông Vĩnh Linh (Vĩnh Linh bấy giờ là đặc khu trực thuộc trung ương) và gợi ý Vĩnh Linh nên đào địa đạo như Củ Chi để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu gian khổ.
Năm 1966, khi giặc Mỹ quyết đưa miền Bắc trở lại “thời kỳ đồ đá”, những hầm hào nhân dân sử dụng phòng tránh lâu nay không chịu nổi cường độ đánh phá dữ dội chưa từng thấy của bom, pháo địch. Lúc này, Đảng ủy, bộ chỉ huy quân sự khu vực, công an vũ trang giới tuyến… đã cùng nhau bàn bạc và quyết định đào địa đạo thí điểm. “Thực lòng lúc ấy chưa ai từng vào Củ Chi để “tham quan, học tập kinh nghiệm”, nhưng “túng thì biến”, anh em quyết tâm kiến thiết cho bằng được để tồn tại và đánh kẻ thù”, ông Trần Tảo, một “kiện tướng” đào địa đạo bày tỏ.
“Lặn” vào lòng đất để trường tồn
Việc đem đổ hàng ngàn m3 đất đỏ bazan sau khi đào sao cho địch không phát hiện cũng là chuyện rất gian nan. Trong lúc cánh đàn ông lo việc đào địa đạo, phần việc đưa đất đi đổ được chị em tuổi 17, đôi mươi gánh vác. Đêm đến, đất được gánh đổ ra biển. Ước tính gần 4 triệu m3 đất được đào cho vào rổ rồi chuyền lên mặt đất bằng quang gánh, xe cút kít….
Quê hương chìm trong khói lửa chiến tranh, 4 vạn người dân Vĩnh Linh một nắng hai sương nghèo khó vốn quen với luống cày, mẻ lưới đồng loạt đứng lên cầm cuốc, xẻng kiến thiết nên tòa lâu đài diệu kỳ trong lòng đất. Với tinh thần “Nhà tan cửa nát cũng ừ/ Đánh xong giặc Mỹ cực chừ sướng sau”, một hệ thống làng hầm gồm 114 địa đạo với tổng chiều dài các địa đạo lên đến hơn 40km, cộng với 2.100km giao thông hào, gần 4 triệu m3 đất được đào đắp… Đấy không phải là những con số cơ học như bây giờ người ta vẫn tính toán khối lượng công trình và học phí của sự thành bại, không chỉ có mồ hôi mà còn đổ cả máu. Những người từng tham gia đào địa đạo như ông Trần Tảo, Hồ Triêm… may mắn đi qua chiến tranh như một phép màu, hẳn còn nhớ rõ mồn một về những lần bom Mỹ đánh sập địa đạo, 400 đồng bào mãi mãi nằm lại dưới lòng đất làm thành nấm mồ chung. Để rồi cũng từ trong lòng đất ấy, có 60 đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời nhân lên niềm tin, hy vọng.
“Cuốc đất đào địa đạo, chuyện nghe dễ nhưng khó hơn cả bắc thang lên trời”, ông Trần Tảo bộc bạch. “Ban đầu anh em chọn thôn Tân Mỹ, xã Vĩnh Giang để đào địa đạo thí điểm. Đây là địa đạo đầu tiên của Vĩnh Linh, dài hơn 80m, độ sâu cách mặt đất chừng 7-8m. Nhưng như thế, địa đạo Tân Mỹ chỉ tránh được phần nào bom đạn chứ chưa thể trở thành nơi cho nhân dân vào trú ẩn, sinh hoạt, bám trụ chiến đấu hằng ngày. Phải một thời gian sau này, khi được đào sâu hàng chục mét dưới lòng đất, chia nhiều tầng, địa đạo Vịnh Mốc biến thành ngôi làng trong lòng đất”. Hệ thống địa đạo – làng hầm ở Vĩnh Linh được kiến thiết theo kiểu các tầng ngầm với độ sâu khác nhau. Tầng 1 dành làm nơi sinh sống của đồng bào. Tầng 2 là nơi đóng trụ sở của Đảng ủy – ủy ban và ban chỉ huy lực lượng vũ trang. Tầng 3 là kho hậu cần, cất giữ hàng hóa, vũ khí đạn dược được chuyển vào từ hậu phương miền Bắc để mỗi đêm đưa lên thuyền ra tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ và miền Nam…
Trong hệ thống làng hầm ấy, địa đạo Vịnh Mốc là nơi trú ẩn an toàn nhất với đầy đủ trạm xá, phòng họp, nhà cửa, giếng nước… như mô hình một làng quê trên mặt đất. Với hơn 18.000 ngày công, quân và dân Vịnh Mốc đã vận chuyển hơn 6.000m3 khối đất đá. Gần 2.000 ngày đêm tồn tại dưới lòng đất, người dân nơi đây đã tạo nên sự tích kỳ diệu. “Trước chiến tranh, làng Vịnh Mốc gồm những mái nhà tranh đều tăm tắp trông ra biển bao bọc cuộc sống của người dân chài dãi dầu mưa nắng, chịu thương chịu khó. Thế rồi, một ngày cuối năm 1964, 72 nóc nhà bỗng chốc tan tành dưới làn bom Mỹ bắn vào từ phía biển. Nửa năm sau đó, cả làng Vịnh Mốc này cũng bị máy bay ném bom đốt trụi… Người Vịnh Mốc, vì sự tồn tại của mình, vì hòa bình của quê hương, vì sự tồn vong của nòi giống buộc phải “lặn” vào lòng đất”, ông Hồ Triêm, một người từng tham gia đào địa đạo cho biết.
Phan Vĩnh Yên

 

Kỳ 2: Để tồn tại, người Vĩnh Linh phải nai lưng trần xẻ lòng đất tìm sự sống. Họ phải chia gia đình, họ tộc ra nhiều hầm khác nhau để tránh họa diệt nòi; đưa con trẻ đi xa quê để được học hành. Một cuộc trường chinh bi tráng của hơn 3 vạn học sinh K8 Vĩnh Linh bắt nguồn từ đó!

 

Bình luận (0)