Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

35 ngày ở trạm xá “Cậu Tư”

Tạp Chí Giáo Dục

Ông Nguyễn Xuân Thơm, Phạm Duy Tam và Nguyễn Văn Đức (lần lượt từ trái qua) trong lần họp mặt kỷ niệm 50 năm Đoàn tàu không số

Những ngày đi tìm nhân chứng đã làm nên đường Hồ Chí Minh trên biển, chúng tôi may mắn gặp lại ông Nguyễn Xuân Thơm, thuyền phó con tàu 43 huyền thoại. Ông cũng là người có nhiều kỷ niệm với bác sĩ Đặng Thùy Trâm cũng như trạm xá “Cậu Tư” – tiền thân của Bệnh viện Đa khoa Đặng Thùy Trâm.
Ngày 27-2-1968, tàu 43 nhận lệnh xuất phát từ một cảng thuộc đảo Hải Nam. Nhiệm vụ của anh em là làm thế nào con tàu phải cập biển Mỹ Á, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi đúng vào đêm giao thừa 1968, tức chỉ có 3 ngày. Con tàu 43 huyền thoại của Đoàn tàu không số tham gia chiến dịch Mậu Thân có tổng cộng 17 người, trong đó có 3 người đã vĩnh viễn nằm xuống. Để giữ bí mật cho con đường vận chuyển vũ khí trên biển, anh em phải kết thúc sứ mệnh con tàu 43 tại biển Mỹ Á sau khi đã đưa xác của đồng đội Vũ Xuân Ruệ xuống tàu.
Thương nhớ chị Trâm
14 người may mắn sống sót, ai nấy đều bị thương nặng. Mất 24 giờ lội suối băng rừng, anh em trên tàu 43 được giao liên Đức Phổ đưa về trạm xá dân y của huyện. Những cái tên có mặt trên con tàu tham gia chiến dịch Mậu Thân phải kể đến như: Thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng, hai thuyền phó gồm Nguyễn Văn Đức (Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Q.5) và Nguyễn Xuân Thơm (Trưởng ban Liên lạc Đoàn tàu không số tại TP.HCM và một số tỉnh lân cận); chính trị viên Trần Ngọc Tuấn; báo vụ Huỳnh Ngọc Hoa… Ông Nguyễn Xuân Thơm kể: “Trạm xá nằm lộ thiên giữa rừng cây trơ trụi lá sau một đêm máy bay Mỹ rải chất độc hóa học, chỉ cách căn cứ của địch chừng một giờ băng rừng. Anh em thương binh chưa được sơ cứu vết thương thì ở xã bên (xã Phổ Hiệp) địch lại tổ chức một trận càn lớn. Chỗ nằm đã thiếu, người bị thương lại liên tục được đưa về. Trong khi đó thuốc men điều trị cũng đã cạn kiệt”. 
Trạm xá Đức Phổ còn có một cái tên gọi khác là trạm xá “Cậu Tư” (nay là Bệnh viện Đặng Thùy Trâm). Vì trạm xá nằm trong vùng “điểm nóng” nên phải thường xuyên di chuyển. Ông Thơm nhớ lại ngày đầu tiên được đưa vào trạm xá: Hôm ấy Trạm trưởng, bác sĩ Đặng Thùy Trâm chuyện trò thân mật với anh em thương binh: “Được cấp trên báo tin là các anh vừa ở dưới tàu lên. Nhiệm vụ của chúng tôi là chữa trị cho các anh bằng mọi cách nên các anh cứ yên tâm”. Trong ý nghĩ của Thơm cũng như các anh em khác, được nằm điều trị tại trạm xá, được sự quan tâm chăm sóc đặc biệt của y, bác sĩ thì chẳng khác nào được nằm ở nhà, có bàn tay chăm sóc của mẹ. Hôm sau, 3 người của trạm xá được phân công về làng để mua gạo, thuốc men, bông băng… Họ ra khỏi trạm xá từ lúc mặt trời chưa ló dạng đến khuya vẫn chưa thấy về. Gần 100 người (y bác sĩ và thương binh) ngồi nhà nóng lòng chờ đợi. Lo là các anh đang bị thương nặng lại đói, mọi người chia nhau đi tìm. Linh tính có chuyện chẳng lành vì đường sá có xa xôi nhưng không thể nào mất cả ngày trời cho cả đi lẫn về. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm từ tốn trấn an: “Anh em đều là người địa phương, chắc chắn không có chuyện lạc đường. Mọi người cứ bình tĩnh”. Nói thì nói vậy nhưng trong lòng bác sĩ Trâm như có lửa đốt. Chị đi ra ngoài thật xa để che giấu những cái thở dài nặng trịch. Rồi những người tiếp tế cũng về tới nhưng chỉ có hai. Chị Huỳnh Lý Thu đã bị bọn kiểm soát dọc đường bắn chết. Với anh em thương binh, trong thời gian ở trạm xá, được một bữa cơm với cá khô, rau rừng thì không gì sung sướng bằng. Nhưng có ai cảm thấy ngon miệng khi đồng đội của mình đã hy sinh?
Nỗi lòng kẻ ở, người đi

Một góc Bệnh viện Đặng Thùy Trâm

Ông Thơm hồi tưởng, thời gian ở tàu lên trạm xá ông còm nhom. Được các chị ở trạm xá tận tình chăm sóc từ vết thương đến miếng ăn giấc ngủ thì mới có cân nặng… gần 40kg. Nguyễn Xuân Thơm bị thương nhẹ hơn Nguyễn Văn Đức, Trần Ngọc Tuấn nhưng mất cả tháng trời vẫn chưa lành. Trực tiếp chăm sóc vết thương cho đồng chí Thơm lúc bấy giờ là chị Lệ Thu. Ông Thơm nhớ như in những lần rửa vết thương, chị Thu đều khóc vì thiếu thuốc, vết thương nhiễm trùng nặng, cả tháng sau vẫn chưa lành. Vết thương của một số thủy thủ tạm ổn cũng là lúc các anh nhận lệnh cấp trên phải vượt Trường Sơn ngược ra Bắc. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc, các chị y tá, bác sĩ và anh em thương binh quây quần bên rổ khoai mì. Riêng bác sĩ Thùy Trâm, y tá Thúy Phượng và nhóm phục vụ trạm xá ngồi hàng giờ khâu ba lô, ruột tượng và quần áo từ những mảnh dù của Mỹ để cho các anh mang theo nhu yếu phẩm. Một số anh em thủy thủ chưa bình phục hẳn, mang chiếc ba lô nặng trịch nhưng vẫn cảm thấy nhẹ vì cái tình mà các chị ở trạm xá đã dành cho mình, cho đoàn cảm tử quân trên biển.
Ngày anh em thủy thủ chia tay trạm xá có cả nước mắt và nụ cười, nấn ná chẳng muốn rời nửa bước. Trang nhật ký được viết vào ngày 10-4-1968 của bác sĩ Đặng Thùy Trâm có đoạn: “Vậy là chiều nay các anh lên đường, để lại cho mọi người một nỗi nhớ mênh mông giữa khu rừng vắng vẻ. Các anh đi rồi nhưng tất cả nơi đây còn ghi lại bóng dáng các anh, những con đường đi, những chiếc ghế ngồi xinh đẹp, những câu thơ thắm thiết yêu thương. Nghe anh Tuấn ra lệnh: “Tất cả ba lô lên đường!”. Những chiếc ba lô vụng về may bằng những tấm bao Mỹ đã gọn gàng trên vai, mọi người còn nấn ná đứng lại trước mình bắt tay chào mình một lần cuối. Bỗng dưng một nỗi nhớ thương kỳ lạ đối với miền Bắc trào lên trong lòng mình như mặt sông những ngày mưa lũ và… mình khóc ròng đến nỗi không thể đáp lại lời chào của mọi người. Thôi! Các anh đi đi, hẹn một ngày gặp lại trên miền Bắc thân yêu”.
Người ra đi cũng giãi bày nỗi lòng của mình qua dòng nhật ký của thuyền phó Nguyễn Xuân Thơm viết vào những ngày cuối ở trạm xá Đức Phổ. Trang nhật ký đã bị rêu phong vì thời gian. “Gian khổ lắm chúng tôi mới về đến trạm xá huyện Đức Phổ. Đây là một trạm xá dân y, tên của trạm xá này là “Cậu Tư” – cái tên bình thường, giản dị nhưng rất mực mến thương! 35 ngày sống ở trong lòng “Cậu Tư”, tôi vô cùng thương yêu trìu mến. “Cậu Tư” đối với đơn vị tôi không tiếc mồ hôi, sức lực, không tiếc máu xương, không quản đường sá xa xôi lặn lội trèo đèo, lội suối về đồng bằng tìm thuốc, tìm thức ăn nuôi dưỡng chăm sóc cho chúng tôi mau bình phục. Khi chia tay chúng tôi, các chị còn may cho chúng tôi ba lô, quần áo, dụng cụ cá nhân, còn cho gạo và thuốc men mang theo ăn đường. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm khóc khi tiễn đưa chúng tôi. Chị hẹn: “Sẽ gặp nhau ở miền Bắc các anh nhé!”. Còn chúng tôi đối với “Cậu Tư” thế nào đây, với biết bao tình cảm thương mến nhớ sao cho hết…”.
Lần đầu tiên trong đời Nguyễn Xuân Thơm làm thơ. Bài thơ ấy anh dành tặng các chị ở trạm xá. Ý thơ mộc mạc, dung dị nhưng chất chứa yêu thương: “Những ngày sống trên núi rừng Ba Tơ hùng vĩ/ Sống bên nhau có chị có em/ Giờ chia tay: Em, chị muốn thêm/ Được nhiều nữa gần nhau công tác/ Chị ơi tình chị em tạm gác/ Nhiệm vụ mình gánh vác trên vai/ Xa nhau tình cảm còn dài/ Hẹn ngày thống nhất nay mai chị về”. Còn đối với chị Thu, người trực tiếp chăm sóc cho mình suốt những ngày ở trạm xá, Thơm gửi gắm qua 4 câu thơ: “Biển Đông vẫy gọi anh về/ Còn em ở lại bốn bề nhớ thương/ Anh về trở lại hậu phương/ Tiếp tục nhiệm vụ chiến trường đang mong”.
Bài, ảnh: Trần Tuy An
Ông Thơm hồi tưởng: “Chúng tôi thật sự xúc động khi phần ăn của anh em thương binh được ưu tiên 2 gạo, 1 mì (cơm độn khoai mì, 2 phần gạo, 1 phần mì – PV). Còn đội ngũ y, bác sĩ và người phục vụ trạm xá thì 1 gạo, 2 mì. Tôi đề nghị cho anh em được ăn phần ăn như y, bác sĩ nhưng bác sĩ Trâm lắc đầu, bảo: “Chị em chúng tôi làm việc ở một chỗ, không cần sức lực nhiều nên ăn thế nào cũng được. Riêng các anh thì khác, vả lại phải ăn để mau hồi phục mà còn chiến đấu nữa”. 
 

Bình luận (0)