|
Chị em phụ nữ Phú Nghĩa với nghề mây tre đan
|
Từ những nguyên liệu như mây, tre, giang, song… với đôi tay khéo léo, sự chăm chỉ cần mẫn cộng với đầu óc sáng tạo, người dân xã Phú Nghĩa (Chương Mỹ – Hà Nội) đan lên thành nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong lẫn ngoài nước. Sự ra đời của nghề này đã cải thiện lớn về mặt kinh tế cho người dân, tuy nhiên ngày nay nhắc đến nó, nhiều người đang lo ngại…
Nét đẹp của nghề
Tương truyền nghề mây tre đan ở Phú Nghĩa vốn ra đời đã hơn 400 năm, xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng các dụng cụ hàng ngày như rổ, rá, làn, túi xách, dụng cụ đánh bắt… Trong khi chờ đợi thu hoạch mùa vụ, người dân tranh thủ làm tăng thu nhập trang trải cuộc sống. Thời gian đổi dời, nghề dần phát triển rộng, đa dạng về các mặt hàng, từ mẫu mã cho đến kiểu dáng như hàng cỏ hàng sâu ủ ấm, lục bình, đèn treo tường, khung tranh ảnh, bàn ghế, lọ hoa, lồng bàn… Các mặt hàng của làng đã hiện diện bao năm trong nhà hàng, khách sạn, các văn phòng Chính phủ và còn có mặt trên nhiều nước như Nga, Đức, Cu Ba, Nhật Bản…
Thanh niên trai tráng có thể vào rừng lấy mây về bán cho bà con trong làng, không thì tập trung làm cùng gia đình. Gia đình chị Nguyễn Thị Liên có hai lao động chính, mỗi tháng trừ mọi chi phí nguyên liệu cũng mang lại cho gia đình khoảng 3,5 triệu đồng.
Còn làng nghề Mây tre đan Phú Vinh được UBND tỉnh Hà Tây công nhận vào năm 2002, tuy nhiên nguyên liệu chính để làm nên sản phẩm đó là mây, song và giang.
Hàng được đánh giá cao ở các hoa văn thể hiện trên thân hàng. Hoa văn được kết lên từng nan của sợi, lẩy lên từng nan của giang kết hợp các nuộc sợi xâu nối song, giang lại với nhau. Hàng ủ ấm nước bình thường, khay, khạp, đèn treo tường… thường được lẩy nan sợi tạo thành hoa văn hình thoi, tròn, tam giác, đủ các loại. Còn các loại ấm ủ nước hay lục bình có kích cỡ lớn… được làm để trưng bày, triển lãm, làm quà biếu tặng thường lẩy nan tạo hoa văn đào, cúc, trúc, mai, long lân – quy phụng, các câu đối bằng chữ Hán. Đây là những chi tiết tạo nên độ sắc sảo của hoa văn và tôn vinh vẻ đẹp của hàng. Để làm được việc này người đan không những nắm quy tắc lẩy nan và hơn hết phải quen tay, khéo léo. Theo anh Ngọc Anh, “Nếu lỗi một nan coi như hỏng hết hoa văn”. Khâu cuối cùng, hàng sẽ được nhúng keo phơi khô tạo độ cứng sau đó, hun diêm sinh (chất chống mối mọt, ẩm mốc), xịt keo màu để làm bóng các hoa văn và mặt hàng.
Cần sự đột phá
Đứng trước các sản phẩm mây tre đan, khách hàng không khỏi thốt lên lời khen bởi sự cần mẫn của người làm vì từng nuộc sợi được xâu, đan, lồng ghép thân song, giang lại với nhau theo các đường zích zắc. Hàng nhỏ đến nghìn nuộc, nhưng hàng lớn đến vài nghìn thậm chí hơn. Bao năm, nghề gắn bó trong cuộc sống người dân, giải quyết lượng lớn lao động tại làng và trong những năm qua, nghề còn được truyền dạy cho các khu vực khác như: Thái Bình, Thanh Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngãi… Tuy nhiên, cũng bởi mây tre đan là nghề gia truyền thế nên, mô típ cha làm sao, con cái, cháu chắt làm nấy vẫn chủ đạo, nguyên nhân có thể làm nghề giậm chân tại chỗ. Ông Nguyễn Văn Trung (nghệ nhân làng nghề) thở dài: “Đứng trong thời đại công nghiệp phát triển, nghề chưa đề cao tính chuyên nghiệp, vẫn tập trung làm cá thể gia đình, các cơ sở, xưởng nhỏ thì thiếu áp dụng công nghệ như máy móc, công nghệ xử lí nguyên liệu để tạo ra các mặt hàng bền đẹp hơn nữa. Song song đó, giá nguyên liệu như song, mây, ngày càng đắt đỏ, khan hiếm khiến chi phí làm hàng tăng lên, đặc biệt, các mặt hàng vốn nổi tiếng này còn bị các nước như Trung Quốc, Nhật Bản Thái Lan… cạnh tranh khiến cho hàng xuất khẩu khá chậm, dẫn đến giá thành không cao. Nhiều thanh niên bỏ nghề vào nhà máy, thực trạng này diễn ra ngày càng nhiều”. Chủ cơ sở nhỏ xóm Phú Hữu Nguyễn Đình Hà cho biết: “Khách hàng thì đông, mỗi tháng cần xuất khoảng 1.000 chiếc ủ ấm nước, mang lại doanh thu trên 200 triệu đồng, song số lượng đạt chỉ xấp xỉ thôi vì tay nghề công nhân làm vẫn ở mức trung bình”. Cũng có những cơ sở đang tự trang bị máy móc nhưng chỉ là số ít bởi họ lo ngại kinh phí khá cao mà chưa quan tâm.
Để nghề có thể phát triển mạnh, bền vững, theo ông Trung, nghề cần phải có định hướng cụ thể cho đồng loạt, có nghĩa phải công nghiệp hóa, áp dụng máy móc như máy cắt, chẻ mây, chuốt song, máy xử lí nguyên liệu hun, sấy, tẩy, phun màu… giúp quá trình làm nhanh về tiến độ, đảm bảo về mẫu mã chất lượng, giảm công đoạn thủ công, nâng cao giá thành sản phẩm, đặc biệt phải đào tạo tay nghề chuyên nghiệp cho thợ làm, tránh lối làm cha truyền con nối, như vậy nghề mới có thể hưng thịnh, đi lên bền vững.
Bài, ảnh: Ngọc Trinh
|
Từ nghề truyền thống này mà từ năm 1840, nhiều nghệ nhân đã đan các bức Hoành Phi, Câu Đối, Long Đình, Võng Trụ cho các phủ: Thanh Ba Phú Thọ, Quốc Oai Hà Tây. Ngày nay, nghệ nhân Nguyễn Văn Trung nổi danh đan chân dung Hồ Chủ tịch bằng mây. Sau hơn 30 năm, ông đã đan đến trên 200 chân dung Bác. Mỗi bức ảnh ông đan, được gửi đi nước ngoài, các bảo tàng hay các văn phòng Chính phủ…
|


Bình luận (0)